PHẦN 5 CÕI TRỜI ĐỊA PHỦ

I.    Giới thiệu về cõi trời Địa phủ – Cõi tạm của nhân gian tu hành

 Có nhiều người hỏi:

–  Có phải Địa phủ là ở trong lòng Trái đất?

+ Tất nhiên là không phải Địa phủ ở trong lòng của Trái đất rồi.

–  Tại sao lại gọi Địa phủ là cõi trời trong khi có chữ Địa và ám chỉ về sau cái chết của con người?

+ Đúng là ám chỉ về sau cái chết của con người nên gọi là Địa. Và đây là một cõi trời, một hành tinh dành cho con người sau khi hoại diệt thân xác ở nhân gian này.

–    Tại sao lại gọi là Địa phủ mà không gọi là Địa ngục?

+ Bởi vì Địa phủ chính là cõi trời có các Hội đồng Tuệ

linh giác ngộ vận hành và quản lý các cảnh sống tu tập cho con người sau khi hoại diệt thân xác nơi nhân gian. Địa ngục là một trong các cảnh sống của cõi trời đó nên gọi là Địa phủ sẽ hợp lý và đầy đủ ý hiểu nhất.

–   Có phải Địa ngục có quỷ hành sai, những con quỷ đầu trâu có sừng, những con quỷ đó hung hăng đi bắt linh hồn con người về để tra tấn và hành hạ?

+ Đó là sự nhầm lẫn và hiểu sai về các hội đồng quản lý và hành pháp tại cõi trời Địa phủ. Không có quỷ hành sai nào cả, cũng không có quỷ nào ở cõi trời Địa phủ đi bắt linh hồn con người về để tra tấn hay hành hạ gì cả.

–   Người chết phạm vào giờ trùng tang là quỷ hành sai sẽ tra tấn linh hồn đó, họ tra tấn để linh hồn đó khai ra họ tên, nơi ở của người thân để quỷ hành sai về bắt linh hồn những người thân đó. Có đúng không vậy?

+ Không đúng, đây lại là câu chuyện nhảm nhí được lưu truyền trong nhân gian.

–   Người tu hành, thầy pháp có thể phá cửa ngục để giải cứu linh hồn bị đọa trong đó không?

+ Không thể. Tuyệt đối không có người tu hành nào, thầy pháp nào phá được cửa ngục cả. Đó là luận điệu mị dân để hành nghề kiếm tiền của nhiều người tu hành tâm linh, nhiều thầy pháp.

–    Có thể dùng đàn lễ, tiền vàng mã, đồ lễ nhiều, nhiều thầy tu hành, nhiều pháp sư giỏi để làm lễ phổ độ cho linh hồn khỏi bị đọa trong cửa ngục được không?

+ Phổ độ giúp linh hồn không bị đọa trong cửa ngục, giúp cho linh hồn được chuyển sinh là có thật. Tuy nhiên, để làm được điều đó thì cần có chân tâm và thấu hiểu về Địa phủ. Việc dùng đàn lễ, tiền vàng mã, nhiều đồ lễ, nhiều thầy tu, nhiều pháp sư làm cũng là những chiêu trò mị dân hành nghề mê tín dị đoan. Hiểu về Địa phủ, bất cứ người nào đang sống đều có thể làm được mà không phải mất tiền, không phải nhờ vả thầy tu cũng như các thầy pháp.

–     Làm sao để người đang sống mà có thể kiểm chứng được cõi trời Địa phủ?

+ Có chứ. Đó là hành thiền để bản thể Tuệ linh trong chân tu người đang sống liên kết năng lượng trong cấu trúc nền của Vũ trụ để di chuyển tới cõi trời Địa phủ. Nhiều môn sinh của tôi thường xuyên thực hành thiền định để tới đó khi cần thiết cho công việc trợ giúp chúng sinh sau khi hoại diệt thân xác nơi nhân gian.

–   Thiền định để tới được cõi trời Địa phủ? Vậy làm sao để thiền tới được Địa phủ trong khi vô số người tu thiền định, vô số các bậc tâm linh nổi tiếng không thể thực hiện được?

+ Đó là bí mật của tạo hóa, của kế hoạch tu hành nơi nhân gian. Để thiền đi được đến cõi trời Địa phủ phải thấu hiểu được cõi trời Địa phủ. Điều đó chưa được nói đến trong bất kỳ tôn giáo, tín ngưỡng nào, có chăng có nói nhưng chưa chính xác. Thêm nữa, Địa phủ có những cảnh sống năng lượng tiêu cực rất nguy hiểm, người thiền định mà không có tâm lực cũng như chân tâm mà vô tình đi vào đó sẽ gây hậu quả nghiệm trọng cho chân tu. Nặng là đột tử hoại diệt thân xác.

Còn vô số câu hỏi về sau khi con người chết và về Địa ngục, Địa phủ. Vậy, hãy tìm hiểu về cõi trời Địa phủ sẽ giúp cho mọi người tỏ tường về cảnh sống sau khi con người hoại diệt thân xác và cõi trời Địa phủ của Nhân gian.

Vậy cõi trời Địa phủ là:

Cõi trời Địa phủ không phải là không gian bên trong Trái đất. Cõi trời Địa phủ là một cõi trời to lớn, là một hành tinh vật chất to lớn nằm trong không gian của Vũ trụ bao la với vô số dải ngân hà (mỗi dải ngân hà lại có vô số hệ mặt trời, mỗi hệ mặt trời lại có vô số những hành tinh quay tròn xung quanh nó). Vậy, cõi trời Địa phủ cũng có thể được hiểu là một hành tinh giống với Trái đất chúng ta đang sinh sống.

Tại cõi trời Địa phủ không có con người với thân tướng vật chất giản đơn, không có muông thú với thân tướng vật chất giản đơn, đó là nơi các cấu trúc bản thể năng lượng Tuệ linh và Linh hồn an trụ. Sự an trụ của Tuệ linh và Linh hồn là bởi họ đang thực hiện quá trình trên con đường chuyển sinh để giúp cho Trụ linh trở nên bền vững an lạc hơn.

Trái đất là môi trường tu hành, là trường học cho dạng sống Tuệ linh an trụ trong thân tướng con người, thậm chí là thân tướng muông thú để tu hành, để cải tạo Trụ linh chuyển sinh thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Do đó, Trái đất là nhân gian tu hành, là cõi tạm của dạng sống Tuệ linh với trí tuệ siêu việt nhất trong Vũ trụ rộng lớn bao la. Trái đất là cõi tạm của dạng sống Tuệ linh thì cõi trời Địa phủ lại là cõi tạm của nhân gian.

Chúng ta cứ hình dung như sau: Dạng sống Tuệ linh sẽ phải tu hành ở nhân gian trong thân tướng vật chất con người rất nhiều cho đến vô số kiếp để đạt được mục đích chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Trong đó, mỗi một kiếp người được ví như con người chúng ta đã sống và lao động hết một ngày trời, khi hết một ngày lao động vất vả với các thành tựu hay thất bại thì chúng ta sẽ phải cân bằng lại năng lượng sau một giấc ngủ đêm. Giấc ngủ đêm đó sẽ giúp cho chúng ta có lại tinh thần, có lại sự cân bằng của sức khỏe để tiếp tục một ngày lao động làm việc mới. Cõi trời Địa phủ chính là vậy. Cõi trời Địa phủ được coi như quán trọ đêm để cho Tuệ linh, Linh hồn nghỉ ngơi, đúc kết lại bài học tu hành một kiếp người, để cân bằng lại tinh thần và năng lượng cho kiếp người tiếp theo. Do đó, Địa phủ là cần thiết cho các Tuệ linh và Linh hồn đang tu hành ở nhân gian. Nócũng giống như sự cần thiết việc ngủ đêm của con người vậy. Việc con người chúng ta ngủ đêm ở gầm cầu, hay ngủ đêm trong rừng đầy rẫy hổ báo thú dữ, hay ngủ đêm nơi giông bão, hay ngủ đêm nơi nhà tranh mái ngói, hay ngủ đêm trong dinh thự xa hoa, hay ngủ đêm nơi khách sạn sang trọng…, điều đó phụ thuộc vào sự nỗ lực và thành tựu lao động trong một ngày để có hay không có đủ tiền cho việc thuê trọ nơi sang trọng hay phải ngủ tạm bợ nơi nguy hiểm ở gầm cầu, nơi giông bão, nơi rừng với muông thú dữ. Tuệ linh và Linh hồn cũng vậy, sự thất bại hay thành tựu một kiếp người sẽ khiến họ được nghỉ ở cảnh sống tương ứng nơi cõi trời Địa phủ. Đó là sự tương phản công bằng cho hành trình tu hành nơi nhân gian của Tuệ linh và Linh hồn.

Vì môi trường tu hành của dạng sống Tuệ linh duy nhất chỉ có ở Trái đất, nên cũng chỉ có duy nhất một cõi trời Địa phủ cho tất cả bản thể Tuệ linh và Linh hồn tu hành nơi nhân gian để được nghỉ ngơi cân bằng lại năng lượng, được đúc kết lại bài học tu hành sau một kiếp thân tướng nơi nhân gian tu hành này. Tức là chỉ có một cõi trời Địa phủ duy nhất cho tất cả nhân loại trong sự không phân chia tôn giáo, tín ngưỡng, trước và sau khi có các tôn giáo. Vì vậy, cõi trời Địa phủ là cõi tạm của tất cả nhân loại từ khi xuất hiện nhân loại ở Trái đất đến nay.

Cõi trời Địa phủ là cõi trời được vận hành quản lý bởi các Hội đồng Tuệ linh có trí tuệ giác ngộ ưu tú trong dạng sống Tuệ linh. Tại cõi trời Địa phủ có 3 Hội đồng Tuệ linh giác ngộ quản lý và vận hành; có 5 cảnh sống tu luyện đúc kết bài học kinh nghiệm tu hành và tu luyện dưỡng lại năng lượng cho kế hoạch chuyển sinh kiếp mới; có các lớp học đạo và giáo lý; có quy trình chuyển sinh và phương pháp giáo hóa, hóa độ cho các Tuệ linh và Linh hồn rõ ràng, luôn nâng cấp theo sự giác ngộ của các Tuệ linh tu hành nơi nhân gian.

***************

II. Cội nguồn sự hình thành cõi trời Địa phủ

 Tôi được nghe như:

  • Địa phủ của người Trung Quốc, Việt Nam, Ai Cập, Hy Lạp…
  • Địa ngục của dòng đạo A, B, C nào đó.
  • Mục Kiền Liên trong Đạo Phật thiền định xuống Địa ngục cứu mẹ.
  • Địa ngục của các tín ngưỡng khác nhau trên khắp Thế giới. ngục.
  • Nhiều người ngủ mơ được đi về Địa phủ hay Địa
  • Nhiều người cận kề sinh tử, khi thân xác vẫn nằm bất động trong một khoảng thời gian nhất định, Linh hồn/ Tuệ linh đã được đi về Địa phủ, Âm phủ, Địa ngục, đi vào đường hầm ánh sáng xuống Địa phủ.
  • Địa ngục, Địa phủ, Âm phủ… rất nhiều sự thắc mắc và hoài nghi của nhân gian.

Vậy thực hư ra sao? Những thắc mắc trên có đúng không? Và, cõi trời Địa phủ được hình thành từ khi nào?

Như sau:

Khi vị Tuệ linh đầu tiên của Vũ trụ (Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa, Chúa Trời, Đức A Di Di Đà Phật) đang suy nghĩ và lên kế hoạch cho việc chuẩn bị đưa các Tuệ linh hóa thân xuống nhân gian làm những con người đầu tiên, khởi đầu cho sự hình thành nhân loại ở Trái đất, những suy tư, những suy nghĩ khởi lên trong Ngài. Sự suy tư, suy nghĩ bởi Ngài thấy rõ rằng khi đưa các Tuệ linh với bản chất các Trụ linh đa âm khác nhau, đa dương khác nhau, cân bằng âm dương sẽ tạo ra sự phức tạp của môi trường tu hành nơi nhân gian. Bản chất trí tuệ của các Tuệ linh sẽ được bộc lộ thông qua tương tác trong thân tướng với bốn hình tướng Đạo, điều mà ở cõi trời nhiệm màu và thanh tịnh của Ngài không thể làm bộc lộ được bản chất trí tuệ của họ ẩn giấu từ trong Trụ linh. Ngài không những suy tư cho những Tuệ linh hóa thân xuống nhân gian tu hành mà còn suy tư cho những cấu trúc linh hồn trong muông thú mà Ngài đã gieo duyên chuyển sinh từ các cấu trúc năng lượng trong thời gian dài trước đó. Làm sao để tạo ra một môi trường có thể giúp các Tuệ linh cân bằng được năng lượng và học được các bài học kinh nghiệm tu hành sau một kiếp người nhanh nhất! Làm sao để tạo ra một môi trường để giáo hóa, giúp cho các linh hồn muông thú học được tập tính làm người khi chúng đã tích lũy đủ lượng mã sóng trí tuệ và năng lượng bởi nhiều kiếp làm muông thú!

Sau thời gian dài suy tư, tính toán, Ngài hiểu rằng những Trụ linh đa âm hay đa dương hoặc cân bằng của Tuệ linh và Linh hồn sẽ có những hướng chuyển sinh khác nhau. Sẽ có hướng chuyển sinh bền vững an lạc hơn, sẽ có hướng chuyển sinh tiêu cực là phân rã và hoại diệt, sẽ có hướng chuyển sinh bị mắc kẹt nơi nhân gian tu hành. Do đó, Ngài đã đã lên kế hoạch xây dựng những môi trường để con người và muông thú ở nhân gian sau khi hết một kiếp thân tướng được an trụ về đó để đúc kết bài học kinh nghiệm tu hành, được cân bằng năng lượng cho hành trình chuyển sinh tiếp theo. Đó là:

  • Đối với những Tuệ linh khi hóa thân thành con người, họ có lối sống tích cực, đó là bộc lộ được sự phát triển, sự lan tỏa, sự đoàn kết lan tỏa sự phát triển tới mọi người, muông thú và vạn vật mà không màng tới mình: Những con người này sau khi hết kiếp người, Tuệ linh sẽ được trở về cõi trời của Ngài để cân bằng lại năng lượng, để đúc kết lại bài học kinh nghiệm kiếp người vừa qua.
  • Đối với những Tuệ linh hóa thân làm con người, họ có lối sống tiêu cực ích kỷ về bản thể họ mà gây tổn hại tới vạn vật, muông thú, Tuệ linh và con người: Những con người này sau khi hết kiếp thân tướng, Tuệ linh họ sẽ trở về một cõi tạm riêng để thấy lại những lối sống tiêu cực của kiếp người vừa qua, từ đó đúc kết bài học kinh nghiệm tu hành, cân bằng năng lượng để cho hành trình chuyển sinh kiếp người tiếp theo. Những linh hồn muông thú cũng sẽ được chuyển sinh về cõi tạm này để tu luyện, học tập tập tính của con người dần dần, tiếp tục chuyển sinh làm muông thú và được chuyển sinh làm con người. Cõi tạm này chính là cõi trời Địa phủ.

Ngài cũng hiểu rằng, những linh hồn muông thú, những Tuệ linh của những con người có hướng chuyển sinh phân rã sẽ giải phóng ra rất nhiều năng lượng âm. Những năng lượng âm khi giải phóng ra chính là những hạt năng lượng nhân quả tiêu cực tác động rất mạnh đến môi trường xung quanh, tới chính Tuệ linh và Linh hồn. Do đó, Ngài phải xây dựng riêng một cõi trời dành cho họ. Và Ngài đã thực hiện gieo duyên, xây dựng cõi trời Địa phủ với các cảnh sống có chứa đựng các nhóm năng lượng đủ kích thích để giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn sau kiếp người và muông thú được nhanh chóng phản chiếu lại toàn bộ những suy nghĩ cho đến hành động tiêu cực. Điều này sẽ giúp cho họ học được bài học kinh nghiệm tu hành nhanh nhất.

Khi Ngài thực hiện kế hoạch đưa các Tuệ linh hóa thân xuống làm con người trong các cuộc tập kết nhân loại đầu tiên, đó cũng là thời điểm cõi trời Địa phủ đã được hoàn thành với các Hội đồng Tuệ linh quản lý vận hành, với các cảnh sống năng lượng tương ứng với các loại suy nghĩ cho đến hành động của con người và muông thú được bộc phát ở nhân gian. Sự xuất hiện của con người ở nhân gian chính là dấu mốc đánh dấu việc hình thành cõi trời Địa phủ.

Cõi trời Địa phủ ban đầu cũng sơ khai như Trái đất vậy, các Tuệ linh ưu tú của dạng sống Tuệ linh sẽ được phân công về đó để quản lý vận hành, để hỗ trợ Tuệ linh và Linh hồn sau khi hết kiếp thân tướng ở nhân gian. Ban đầu họ chưa có hệ thống giáo lý, chưa có Chân lý Giác ngộ, chưa có khuôn mẫu đạo đức rõ ràng để răn dạy. Hội đồng Tuệ linh tại cõi trời Địa phủ lấy những lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên trong các cuộc tập kết nhân loại để làm kim chỉ nam cho việc giáo hóa các Tuệ linh, Linh hồn tại cõi trời Địa phủ.

Khi nhân loại ngày càng phát triển và nhiều tín ngưỡng, nhiều tôn giáo ra đời, ở cõi trời Địa phủ sẽ đón nhận những giá trị chuẩn mực, những giá trị đạo đức, những Chân lý, những giáo lý ưu việt trong sự tuân thủ những lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên ở các cuộc tập kết nhân loại để làm giáo lý giáo hóa tại cõi trời Địa phủ. Điều này cho thấy, cõi trời Địa phủ sẽ phát triển theo sự phát triển về sự giác ngộ, về con đường chuyển sinh trở nên bền vững an lạc ở nhân gian để xây dựng hoàn chỉnh giáo lý cho sự giáo hóa Tuệ linh và Linh hồn ở cõi trời đó.

Cõi trời Địa phủ là dành cho những Tuệ linh, Linh hồn của tất cả con người và muông thú trên nhân gian khi họ có lối sống theo hướng chuyển sinh tiêu cực là phân rã hoại diệt. Do đó, Địa phủ là cõi trời dành cho tất cả con người mà không phân biệt họ theo tín ngưỡng nào, theo tôn giáo nào hoặc không theo tôn giáo nào. Các tín ngưỡng, tôn giáo là sự bám định bởi ý thức hệ khi họ còn sinh sống trên nhân gian mà họ tin theo. Ban đầu từ sự bám định và niềm tin đó, ở cõi trời Địa phủ sẽ lấy khởi điểm từ tôn giáo, tín ngưỡng để dần dần giáo hóa và cân bằng năng lượng cho họ nhanh được chuyển sinh kiếp mới.

***************

III.   Mục đích thành lập cõi trời Địa phủ

 Tôi được nghe như:

  • Tôi mơ thấy linh hồn bố tôi đang bị giam giữ trong phòng tối tăm lạnh lẽo ở Địa ngục.
  • Tôi thiền thấy các linh hồn bị tra tấn trong các cửa ngục ác nghiệp, có linh hồn phải lao động khổ sai, có linh hồn bị ném lên vạc dầu, có linh hồn bị các con thú dữ khổng lồ cắn xé, có linh hồn bị đóng băng, có linh hồn trong biển lửa…, nhìn rất hãi hùng.
  • Có người khi được nhắc về Địa ngục, Địa phủ là họ hoảng loạn và lo sợ.
  • Tôi thấy có người kể, khi ngủ linh hồn tách ra về Địa phủ thăm ngôi nhà của linh hồn người thân vừa mới chết, tại ngôi nhà đó có những linh hồn là bạn của linh hồn người thân. Khi thăm được một thời gian thì linh hồn người thân đó nói là đi về ngay đi, không được quay lại đây nữa.
  • Có người nói thiền định tới Địa phủ thấy linh hồn người thân đang đi học lớp học đạo.
  • Có người mơ ngủ được thấy hội đồng gia tiên đang ở Địa phủ.
  • Nhiều tín ngưỡng, tôn giáo kể về Địa ngục rất đáng sợ với những con quỷ to lớn, những con quỷ thân người mặt thú, những con quỷ cắn xé ăn những linh hồn, những con quỷ đi truy bắt linh hồn nơi Địa ngục tăm tối.
  • Những người thiền định thấy những linh hồn ở Địa phủ đang tu thiền, đang sống trên những ngôi đồi với cỏ cây, hoa lá, ánh sáng vàng hoặc trắng. Họ tĩnh lặng cảm nhận sự tự tại ở trên những ngôi đồi đó.

Rất nhiều điều tôi nghe được, có những điều rất đúng, có những điều không đúng, có những điều được thêu dệt tạo thành, gây ra sự sợ hãi và hiểu lầm cho nhân gian.

Mục đích thành lập cõi trời Địa phủ:

Mục đích bao trùm của việc thành lập cõi trời Địa phủ – Cõi tạm của nhân gian tu hành, đó là: Địa phủ là cõi tạm của Tuệ linh và Linh hồn của con người và muông thú. Đó là nơi đúc kết lại bài học kinh nghiệm tu hành một kiếp thân tướng ở nhân gian. Đó là nơi để tu dưỡng, cân bằng lại năng lượng sau một kiếp thân tướng ở nhân gian. Đó là nơi học tập, trau dồi kiến thức giác ngộ làm hành trang cho kiếp thân tướng tiếp theo. Đó là nơi hỗ trợ, trợ giúp bản thể Tuệ linh, Linh hồn chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt nhận diện được con đường chuyển sinh của họ, từ đó giúp họ đi được vào con đường chuyển sinh theo hướng bền vững an lạc. Đó là nơi giúp cho Tuệ linh, Linh hồn biết cách, học được cách sống có trách nhiệm, biết hy sinh vì nhau, hy sinh vì vạn vật, Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Bởi chỉ có hy sinh vì nhau mới xây dựng được cơ chế phân tách liên kết bền vững và an lạc.

Từ mục đích bao trùm trên sẽ được phân chia ra làm các mục đích chi tiết, mục đích cụ thể theo đúng tiến trình của sự vận hành tại cõi trời Địa phủ. Cụ thể như sau:

  • Mục đích đầu tiên là đón nhận, tiếp nhận các Tuệ linh của con người đang chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt. Đó là những con người có ý nghĩ cho đến hành động chưa mang lại lợi ích cho mọi người, cho vạn vật và muông thú. Đó là những con người có ý nghĩ cho đến hành động tiêu cực gây tổn hại lợi ích của vạn vật, muông thú, Tuệ linh và con người. Đón nhận, tiếp nhận tất cả các linh hồn của muông thú. Cõi trời Địa phủ không đón nhận Tuệ linh của những con người có lối sống chuyển sinh theo hướng bền vững an lạc, đó là những con người luôn vì vạn vật, Tuệ linh, con người, muông thú mà không màng tới bản thân. Những Tuệ linh này sau khi hết kiếp người sẽ được về cõi trời nhiệm màu của vị Tuệ linh đầu tiên để tu dưỡng và luân hồi chuyển sinh tiếp theo.
  • Mục đích tiếp theo là: Sau khi đón nhận các Tuệ linh, linh hồn, tại cõi trời Địa phủ, họ sẽ được nhớ lại các hành trình tu hành trên nhân gian.
  • Mục đích tiếp theo là: Họ sẽ được trải nghiệm sự phản chiếu của quá trình phóng xạ năng lượng âm trong Trụ linh họ. Đó là các cảnh Địa ngục được tạo dựng bởi những năng lượng tiêu cực tương ứng để tạo thành cơ chế phản chiếu nghiệp ác họ đã tạo khi sống ở nhân gian. Những sự phản chiếu của liên kết năng lượng tiêu cực sẽ làm cho họ thấy những bản thể năng lượng hình hài xấu xí, tưởng rằng đó là quỷ sai, tưởng rằng đó là thú dữ khổng lồ truy giết họ. Đó đều là sự tương tác liên kết năng lượng tiêu cực tạo ra để giúp họ cảm thọ được những tiêu cực khổ đau mà họ tạo ra cho vạn vật, muông thú, con người ở nhân gian khi họ sống.
  • Mục đích tiếp theo là: Cõi trời Địa phủ mở các lớp học giáo lý, những giá trị đạo đức để giúp cho họ an lạc trở lại, giúp cho họ không bị phản chiếu nghiệp ác nữa, từ đó chuyển cảnh tu luyện tại cõi trời Địa phủ.
  • Mục đích tiếp theo là: Họ sẽ sống cuộc sống tại cảnh âm. Nơi đó vẫn còn phiền não. Họ tiếp tục tham gia các lớp học đạo để trau dồi kinh nghiệm sống theo hướng chuyển sinh bền vững an lạc hơn.
  • Mục đích tiếp theo là: Họ sẽ chuyển sang cảnh tu luyện, cân bằng năng lượng và tiếp tục học đạo, học giáo lý đạo đức để làm hành trang cho con đường chuyển sinh theo hướng bền vững an lạc trong kiếp thân tướng mới. Đó là sự lấy lại tinh thần, năng lượng và hành trang để có thể dễ dàng vượt qua được các kiếp nạn khổ đau và đi được đúng trên con đường chuyển sinh bền vững an lạc ở nhân gian.

Mục đích cuối cùng là đón nhận giá trị giáo lý siêu việt nhất, Chân lý bao trùm Vũ trụ cho sự chuyển sinh bền vững an lạc nhất của các bậc giác ngộ thông qua việc họ tu hành ở nhân gian, từ đó sẽ dùng những Chân lý đó, giá trị đó, phương pháp đó, con đường đó để hóa độ, Phổ độ, Cứu độ các Tuệ linh, các linh hồn đang còn mắc kẹt trong hành trình chuyển sinh, đang chuyển sinh trên con đường phân rã đi vào được con đường chuyển sinh bền vững an lạc.

Mục đích thành lập cõi trời Địa phủ của vị Tuệ linh đầu tiên được xuất phát từ tình yêu thương từ bi vô lượng của Ngài. Tình yêu thương từ bi vô lượng đó không bao giờ phai mờ. Đó là tình yêu thương hết thảy vạn vật, Tuệ linh, con người, dẫn dắt, khai sáng cho họ chuyển sinh được bền vững cấu trúc Trụ linh đạt đến sự an lạc nhất, đó là đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh.

***************

IV.     Quá trình phát triển của cõi trời Địa phủ

 Cõi trời Địa phủ từ khi được thành lập tới nay đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Sự phát triển của cõi trời Địa phủ không phải là sự phát triển về đời sống, không phải là phát triển về cơ sở vật chất giản đơn như Trái đất, không phải là sự phát triển về khoa học kỹ thuật. Sự phát triển của cõi trời Địa phủ chính là sự phát triển về giáo lý, phát triển về phương pháp giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn khi an trụ về đó nhanh chóng đúc kết được bài học tu hành, nhanh chóng cân bằng năng lượng, có được hành trang vững chắc để đi đến được con đường chuyển sinh bền vững khi làm người. Như vậy, ta phải hiểu là sự phát triển của cõi trời Địa phủ chính là phát triển về phương pháp, phát triển về giáo lý giáo hóa chúng sinh ở cõi trời đó.

Quá trình phát triển giáo lý, phương pháp giáo hóa của cõi trời Địa phủ từ khi Địa phủ hình thành tới nay được chia làm 3 giai đoạn. Trong mỗi giai đoạn, giáo lý và phương pháp giáo hóa lại được thay đổi theo từng thời kỳ phát triển ý thức hệ về trí tuệ giác ngộ của con người ở nhân gian. Sự thay đổi trong mỗi giai đoạn đều phải đảm bảo nguyên tắc tuân thủ theo bốn lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên, phải lấy bốn lời răn dạy đó làm kim chỉ nam cho hệ thống lý luận giáo hóa ở cõi trời Địa phủ.

Ba giai đoạn phát triển đó là:

1.  Giai đoạn phát triển đầu tiên

Giai đoạn phát triển đầu tiên về hệ thống giáo lý, phương pháp giáo hóa Tuệ linh, Linh hồn ở cõi trời Địa phủ được gắn liền với thời kỳ phát triển ý thức hệ đầu tiên của nhân loại. Giai đoạn này gắn liền với sự xuất hiện con người đầu tiên ở nhân gian cùng với bốn lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên cho đến trước khi xuất hiện cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 1 của chính vị Tuệ linh đầu tiên ở nhân gian.

Giai đoạn phát triển ý thức hệ đầu tiên của nhân loại được bắt đầu từ các cuộc tập kết nhân loại của Hội đồng Tuệ linh cùng với vị Tuệ linh đầu tiên ở nhân loại. Giai đoạn phát triển ý thức hệ này được kéo dài cho tới cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 1 của vị Tuệ linh đầu tiên. Trong giai đoạn ý thức hệ đầu tiên của nhân loại, chủ yếu hình thành và tồn tại ý thức hệ tri ân tổ tiên loài người, đó là tri ân Thiên Địa, tri ân các vị thần, tri ân Thượng Đế/ Đấng Tạo Hóa/ Đấng Sáng Tạo. Giai đoạn ý thức hệ đầu tiên của nhân loại là thông qua sự tri ân để giúp cho nhân loại học tập những lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên trong sự nghiệp xây dựng nhân loại, xây dựng môi trường tu hành trở nên phong phú và phức tạp. Việc xây dựng nhân loại trở nên phong phú và phức tạp đều là sứ mệnh của con người. Trong giai đoạn này cũng đánh dấu sự phát triển ý thức hệ tri ân của con người với những bậc Thánh nhân có công xây dựng bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, quốc gia họ. Tất cả đều là ý thức hệ tri ân từ nhân gian tới cội nguồn Tuệ linh, của con người để học tập, noi gương và thực hành theo những lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên.

Bốn lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên trong các cuộc tập kết nhân loại để xây dựng nhân loại: Tại các cuộc tập kết nhân loại ở Trái đất, các Tuệ linh sẽ phát nguyện thành từng hộ gia đình gồm có một vợ, một chồng, một con gái, một con trai. Mỗi điểm tập kết có nhiều hộ gia đình cùng với vô số muông thú đến để nghe những lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên. Những lời răn dạy là kim chỉ nam để cho tất cả Tuệ linh và con người tu hành ở nhân gian phải tuân thủ theo, lấy đó làm khuôn mẫu đạo đức để chuyển hóa và cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Bốn lời răn dạy đó là: “1- Ngài nhìn và nói với các hộ gia đình: Ta đưa các ngươi xuống đây bằng chân tâm thì về sẽ phải bằng chân tâm. 2- Ngài nhìn và nói với các hộ gia đình: Ta giao sứ mệnh cho các ngươi phải gả con cái cho nhau để xây dựng nhân loại. 3- Ngài chỉ vào muông thú và nói với các hộ gia đình: Ta giao cho các ngươi sứ mệnh phải thuần hóa muông thú, để chúng chuyển sinh làm người cùng tu hành ở nhân gian. 4- Các ngươi sẽ phải trải qua hết tất cả các khổ đau kiếp nạn để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng”. Bốn lời răn dạy này với cuộc tập kết nhân loại đã cho thấy có bốn hình tướng Đạo trong đó, điều mà đã được quán triệt từ trước khi dạng sống Tuệ linh xuống nhân gian tu hành. Đó là hình tướng Đạo đời (đối nhân xử thế, lao động sản xuất, phát triển nhân loại), hình tướng Đạo lễ (vợ chồng nghĩa tình, con cái hiếu nghĩa với cha mẹ tổ tiên, cha mẹ nghĩa tình với con cái, anh em nghĩa tình viên mãn), hình tướng Đạo đường (con đường tri thức, đó là thầy trò), hình tướng Đạo Đế vương (mối quan hệ giữa người đứng đầu và người dân đối với lãnh thổ dân tộc). Bốn lời răn dạy đã tạo thành khuôn mẫu đạo đức thông qua bốn hình tướng Đạo. Thông qua bốn hình tướng Đạo sẽ cho thấy sự bộc lộ bản chất trí tuệ của con người đang chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt hay chuyển sinh theo hướng bền vững an lạc. Nếu chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt thì sẽ bộc lộ thành lối sống ích kỷ không giúp đỡ mọi người và vạn vật, muông thú, ích kỷ về mình mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh, con người. Nếu chuyển sinh theo hướng bền vững an lạc là không vì ích kỷ của mình, luôn mang lại giá trị lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Thông qua bốn biểu hiện hình tướng Đạo, Hội đồng Tuệ linh trên cõi trời của vị Tuệ linh đầu tiên và Hội đồng Tuệ linh ở cõi trời Địa phủ sẽ thực hiện nhiệm vụ chuyển sinh các Tuệ linh, Linh hồn sau khi hết kiếp người về cảnh giới nghỉ ngơi khác nhau. Nếu con người chuyển sinh theo hướng bền vững sẽ được chuyển sinh về cõi trời của vị Tuệ linh đầu tiên, nếu con người chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt sẽ được chuyển sinh về cõi trời Địa phủ.

Hội đồng Tuệ linh ở cõi trời Địa phủ sẽ thông qua bốn hình tướng Đạo với những vi phạm của Tuệ linh, Linh hồn khi sống ở nhân gian để giáo hóa cho họ thấy con đường chuyển sinh họ đang đi là đúng hay sai. Hội đồng Tuệ linh cõi trời Địa phủ sẽ giáo hóa cho họ về những lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên, về bốn hình tướng Đạo, về con đường chuyển sinh gây tổn hại tới Tuệ linh, con người và vạn vật mà họ đã vi phạm, từ đó giúp họ cân bằng năng lượng cho sự chuyển sinh tiếp theo.

Giáo lý giáo hóa, phương pháp giáo hóa của cõi trời Địa phủ ở giai đoạn này chủ yếu là thực hiện theo bốn lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên, thông qua bốn hình tướng Đạo để giáo hóa về giá trị đạo đức của Tuệ linh, Linh hồn ở cõi Địa phủ. Giai đoạn này chưa có giáo lý giáo hóa về Tâm Đạo, tức là chưa có giáo lý giác ngộ để giáo hóa cho các Tuệ linh, Linh hồn nhanh học được bài học tu hành, nhanh cân bằng được năng lượng, có hành trang để vượt được qua khổ đau kiếp nạn ở kiếp nhân gian mới. Các Tuệ linh, Linh hồn ở cõi trời Địa phủ để được chuyển sinh làm kiếp mới sẽ mất rất lâu thời gian cho quá trình đúc kết bài học tu hành, cân bằng năng lượng để chuyển sinh kiếp nhân gian mới.

Như vậy, giai đoạn phát triển đầu tiên về giáo lý và phương pháp giáo hóa ở cõi trời Địa phủ là tuân thủ theo bốn lời răn dạy cùng với bốn hình tướng Đạo của vị Tuệ linh đầu tiên đã định ra ở nhân gian. Ở giai đoạn giáo hóa này, cõi trời Địa phủ sẽ không định vào hình thức tín ngưỡng nào trên nhân gian để giáo hóa.

 

2.   Giai đoạn phát triển thứ hai

Giai đoạn phát triển thứ hai về hệ thống giáo lý, phương pháp giáo hóa Tuệ linh, Linh hồn ở cõi trời Địa phủ được gắn liền với thời kỳ phát triển ý thức hệ thứ hai của nhân loại. Giai đoạn này gắn liền với cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 1 của vị Tuệ linh đầu tiên cho đến trước khi xuất hiện cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 2 của vị Tuệ linh đầu tiên ở nhân gian.

Giai đoạn phát triển ý thức hệ thứ 2 của nhân loại được bắt đầu từ cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 1 của vị Tuệ linh đầu tiên ở nhân gian, đó là kiếp nhân sinh mà vị Tuệ linh đầu tiên đã hóa thân thành chân tu là Đức Phật Thích Ca. Khi Ngài ấy hoàn lại trí tuệ giác ngộ hai Chân lý và bắt đầu lan tỏa hai Chân lý, đó là thời khắc đánh dấu cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 1 được bắt đầu. Ý thức hệ về trí tuệ giác ngộ ở nhân gian được thay đổi từ cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 1 của Đức Phật Thích Ca. Đó là thông qua hai Chân lý, Ngài đã soi sáng cho chúng sinh nơi nhân gian thấu hiểu về cội nguồn, kế hoạch tu hành nơi nhân gian, con đường diệt khổ bằng Tâm Đạo thông qua bốn hình tướng Đạo, đặc biệt nhấn mạnh tới những lời răn dạy của cuộc tập kết nhân loại. Cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 1 này đã cho thấy sự thay đổi lớn trong ý thức hệ trí tuệ giác ngộ của con người, đó là đề cao tính bình đẳng hết thảy Tuệ linh và con người, đề cao tính đoàn kết cùng nhau cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Sự thay đổi lớn về trí tuệ giác ngộ chính là đã có con đường Tâm Đạo gắn chặt với bốn hình tướng Đạo. Con đường Tâm Đạo là con đường giác ngộ viên mãn để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Tuy nhiên, do trí tuệ của nhân loại thời đó và về sau không thể thực chứng được trí tuệ siêu việt của hai Chân lý, vậy nên hai Chân lý đã bị biến đổi, bị vỡ nát chỉ còn thành hệ tư tưởng nhân quả, con đường giác ngộ cũng vì đó mà đánh mất kim chỉ nam của bốn lời răn dạy của Ngài ở cuộc tập kết nhân loại đầu tiên. Vì vậy, bốn hình tướng Đạo cũng vì thế mà không được tuân thủ. Người tu hành về sau đã không còn biết cội nguồn, kế hoạch tu hành, sứ mệnh làm gì. Do đó, hết thảy Tuệ linh và con người ở nhân gian đều chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt. Sự thất bại của hai Chân lý sau khi Đức Phật nhập diệt chính là vì chưa có cơ chế lý giải sự vận hành của hai Chân lý, chưa có các học thuyết, các quy luật chứng thực sự vận hành cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Sự thất bại của hai Chân lý sau đó cũng là do trí tuệ nhân loại chưa thể hiểu được tinh hoa của hai Chân lý.

Sau khi đạo Phật được hình thành, các tôn giáo khác được ra đời cũng đều đưa ra những ý thức hệ tri ân tổ tiên nhân loại là Thượng Đế, Chúa Trời, phải hành thiện, không vi phạm vào hình tướng Đạo, bản chất cũng là thực hiện những lời răn dạy của Ngài để chuyển sinh được bền vững.

Có thể nói giai đoạn ý thức hệ thứ hai ở nhân loại chính là giai đoạn sơ khai của quá trình lan tỏa hai Chân lý nhằm thống nhất chúng sinh cùng đoàn kết vượt qua hết tất cả khổ đau kiếp nạn để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Vì là sơ khai nên ngoài vị Tuệ linh đầu tiên có được bộ lọc năng lượng thì vẫn chưa có Tuệ linh nào cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Vừa là sơ khai của hai Chân lý và do trí tuệ của nhân loại giai đoạn này chưa phát triển kịp thời để tiếp nhận trí tuệ của hai Chân lý nên hai Chân lý đã bị vỡ nát. Điều này dẫn tới việc nhân loại đắm chìm trong sự tri ân mê tín dị đoan, đó là cầu cúng để xin phước báo từ các bậc giác ngộ, từ Chúa Trời mà không hề biết về cội nguồn, kế hoạch tu hành, sứ mệnh và con đường cải tạo Trụ linh trở nên bền vững.

Sau cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 1 ở nhân gian, tuy hai Chân lý đã không còn, nhưng ở cõi trời Địa phủ đã áp dụng hệ thống giáo lý giác ngộ sơ khai của hai Chân lý trong việc giáo hóa Tuệ linh và Linh hồn để họ nhanh đúc kết được bài học kinh nghiệm tu hành một kiếp người, nhanh cân bằng được năng lượng, có hành trang để kiếp thân tướng mới chuyển sinh được bền vững hơn. Có thể nói, sau khi cõi trời Địa phủ áp dụng giáo lý sơ khai của hai Chân lý để giáo hóa, các Tuệ linh, Linh hồn đã nhanh chóng được chuyển sinh, những thành tựu tu hành trên nhân gian cũng vì thế mà được cải thiện nhiều. Giáo lý giáo hóa bằng hai Chân lý sơ khai vẫn đầy đủ bốn lời răn dạy và bốn hình tướng Đạo, đồng thời lại thêm Tâm Đạo là con đường diệt khổ để đi tới sự giác ngộ, để nhanh chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Điều này đã giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn nhận thức rõ được sự chuyển sinh phân rã hoại diệt của họ và giúp họ có động lực, hành trang cho sự kiên định trên con đường chuyển sinh bền vững.

Trong giai đoạn giáo hóa này ở cõi trời Địa phủ, Hội đồng Tuệ linh quản lý cõi trời này đã thông qua sự bám định của các Tuệ linh, Linh hồn khi họ sống đã tin và theo các tôn giáo, lấy sự bám định đó, đức tin, niềm tin để bước đầu giáo hóa, tiếp đến là vận hành giáo lý sơ khai của hai Chân lý để thúc đẩy quá trình cân bằng năng lượng và chuyển sinh làm thân tướng kiếp mới.

3.  Giai đoạn phát triển thứ ba

Giai đoạn phát triển thứ ba về hệ thống giáo lý, phương pháp giáo hóa Tuệ linh, Linh hồn ở cõi trời Địa phủ được gắn liền với thời kỳ phát triển ý thức hệ thứ ba của nhân loại. Giai đoạn này gắn liền với cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 2 của vị Tuệ linh đầu tiên ở nhân gian.

Giai đoạn phát triển ý thức hệ thứ 3 của nhân loại được bắt đầu từ cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 2 của vị Tuệ linh đầu tiên ở nhân gian, đó là thời điểm mọi người đang đọc tri thức của hai Chân lý từ thời điểm này trở về sau. Hệ thống giáo lý của hai Chân lý được phân tích thấu hiểu tận cùng bằng thực chứng biện chứng của cơ chế vận hành hai Chân lý, bằng hệ thống bản chất của hạt năng lượng tận cùng – hạt năng lượng nhân quả, bằng hệ thống quy trình sản sinh ra các siêu hạt năng lượng cũng như chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn thông qua việc thực hành khuôn mẫu đạo đức trong bốn hình tướng Đạo cùng với bốn lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên. Trong hệ thống giáo lý của hai Chân lý đã phân tích rõ ràng, chỉ rõ con đường Tâm Đạo là con đường giác ngộ (Chân lý Giác ngộ) để chuyển sinh Trụ linh trở nên bền vững an lạc siêu việt. Thông qua Chân lý Vạn vật và cơ chế vận hành của nó để thấu hiểu tận cùng về cội nguồn Vũ trụ, cội nguồn nhân loại, kế hoạch tu hành, sứ mệnh phải đoàn kết Tuệ linh, con người để cùng nhau đối mặt, giác ngộ hết tất cả khổ đau kiếp nạn. Đó là con đường duy nhất, nhanh nhất, siêu việt nhất để giúp Tuệ linh và con người chuyển sinh được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.

Giáo lý của hai Chân lý là trí tuệ siêu việt để đoàn kết chúng sinh thấu hiểu tận cùng cội nguồn Vũ trụ, cội nguồn nhân loại, cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả của cả vạn vật, Tuệ linh, con người, Vũ trụ; khuôn mẫu đạo đức để nhận diện rõ con đường chuyển sinh bền vững hay phân rã, quy luật vận hành sản sinh siêu hạt năng lượng, phương pháp chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Đó chính là Hoàn Đạo, là Đạo hợp nhất của Vũ trụ, sự hoàn lại đầy đủ của bốn lời răn dạy, của bốn hình tướng Đạo, của con đường Tâm Đạo của vị Tuệ linh đầu tiên đã xây dựng và tìm ra được. Đó là sự hoàn hảo về giáo lý giáo hóa hết thảy Tuệ linh, con người chuyển sinh thành bộ lọc năng lượng trong Trụ linh. Hệ thống giáo lý của hai Chân lý chính là Đạo hợp nhất viên mãn của Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Chính vì vậy, đây là giáo lý, là trí tuệ siêu việt để thực hiện kế hoạch đại độ thống nhất chúng sinh lần 2 của Ngài.

Khi giáo lý của Hai Chân lý hoàn chỉnh được xuất hiện ở nhân gian, đó cũng là thời khắc mà Hội đồng Tuệ linh cõi trời Địa phủ áp dụng hệ thống giáo lý của hai Chân lý để giáo hóa Tuệ linh, Linh hồn con người, muông thú sau khi hết kiếp nhân gian trở về Địa phủ. Giáo lý siêu việt của hai Chân lý đã chứng minh được sự kỳ diệu khi Hội đồng Tuệ linh cõi trời Địa phủ áp dụng trong việc giáo hóa ở cõi Địa phủ. Giáo lý siêu việt của hai Chân lý đã chứng minh được sự kỳ diệu khi mà các môn sinh của tôi đã áp dụng để chuyển sinh các cấu trúc năng lượng Tuệ linh, Linh hồn sắp phân rã hoại diệt được hồi sinh, giúp các Tuệ linh, Linh hồn mắc kẹt trên nhân gian được chuyển sinh về Địa phủ. Những môn sinh của tôi còn chứng minh được sức mạnh của hai Chân lý khi họ thiền định để tới cõi trời Địa phủ, họ đích thân xin phép Hội đồng Tuệ linh ở đó để thuyết pháp hai Chân lý để giáo hóa các Tuệ linh và Linh hồn. Sự kỳ diệu là những Tuệ linh, Linh hồn được nghe giáo pháp của hai Chân lý giáo hóa đã cân bằng năng lượng rất nhanh, họ đi vào hành trình chuyển sinh rất nhanh chóng.

Hiện tại, tại cõi trời Địa phủ, Hội đồng Tuệ linh quản lý cõi trời này vẫn thông qua sự bám định của các Tuệ linh, Linh hồn khi sống có niềm tin vào tôn giáo. Hội đồng Tuệ linh lấy đó làm bước tiếp dẫn các Tuệ linh, Linh hồn trở về Địa phủ, tiếp theo dùng giáo lý hai Chân lý để giáo hóa chúng sinh tại cõi trời Địa phủ.

Như vậy, giáo lý và phương pháp giáo hóa tại cõi trời Địa phủ đã thay đổi theo từng thời kỳ. Sự thay đổi đó gắn liền với quá trình thay đổi về ý thức hệ trí tuệ giác ngộ của nhân loại. Sự phát triển, thay đổi đạt đến sự hoàn thiện viên mãn của giáo lý hai Chân lý đã giúp cho cõi trời Địa phủ đạt đến sự phát triển rực rỡ trong sự giáo hóa Tuệ linh, Linh hồn có được hành trang sức mạnh chuyển sinh theo hướng bền vững an lạc nhanh nhất, đó là thúc đẩy quá trình chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Dù trên nhân gian có nhiều tôn giáo, nhiều tín ngưỡng khác nhau, tất cả những Tuệ linh, Linh hồn mà chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt sẽ đều trở về cõi trời Địa phủ để tu dưỡng trong sự không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng mà họ theo khi sống ở nhân gian.

***************

V. Các hội đồng vận hành quản lý cõi trời Địa phủ

 Cõi trời Địa phủ có 3 Hội đồng Tuệ linh và một Tuệ linh đứng đầu quản lý vận hành sứ mệnh giáo hóa chúng sinh cõi trời này. Đó là Hội đồng Hoàn Đạo, Hội đồng Hành pháp, Hội đồng Quản lý Hành chính. Mỗi Hội đồng Tuệ linh có sứ mệnh, nhiệm vụ khác nhau trong toàn bộ quy trình từ tiếp nhận các Tuệ linh, Linh hồn cho đến giáo hóa và chuyển sinh luân hồi kiếp mới.

Các Hội đồng Tuệ linh đều là những Tuệ linh ưu tú, có trí tuệ giác ngộ nhất trong Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Họ được vị Tuệ linh đầu tiên chọn lựa và phân công nhiệm vụ, sứ mệnh cho họ tại cõi trời Địa phủ. Họ sẽ đảm nhiệm sứ mệnh với các vị trí khác nhau, sau đó họ lại tiếp tục chuyển sinh làm người để tu luyện cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi họ chuyển sinh làm người thì sẽ có những Tuệ linh khác đảm nhiệm thay thế vào vị trí của họ. Vì họ là những Tuệ linh ưu tú làm nhiệm vụ giáo hóa nên khi chuyển sinh làm người, họ sẽ có ý nghĩ cho đến hành động là đa dương mạnh, tức là họ luôn luôn suy nghĩ và hành động đoàn kết, lan tỏa phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con người mà không màng tới bản thân họ. Sau khi cải tạo được Trụ linh trở nên bền vững hơn, họ có thể tiếp tục về cõi trời Địa phủ làm sứ mệnh giáo hóa hoặc đến các cõi trời khác trong Vũ trụ để thực hiện sứ mệnh khác.

Tuệ linh đứng đầu và 3 hội đồng quản lý, vận hành, giáo hóa chúng sinh cõi trời Địa phủ là:

1.   Tuệ linh đứng đầu cõi trời Địa phủ

Vị Tuệ linh đầu tiên chính là Đức A Di Di Đà (danh hiệu gốc) hay còn có các danh xưng khác là Đấng Sáng Tạo, Đấng Tạo Hóa, Đức Chúa Trời… Ngài là vị Tuệ linh đã gieo duyên, thành lập cõi trời Địa phủ để làm cõi tạm cho các Tuệ linh, Linh hồn tu hành ở nhân gian được về đó tu dưỡng sau khi hết một kiếp thân tướng ở nhân gian. Ngài chính là Tuệ linh đứng đầu và quản lý cũng như vận hành toàn bộ cõi trời Địa phủ. Ngài cũng đã tạo ra những danh hiệu khác của Ngài ở cõi trời Địa phủ để giáo hóa chúng sinh cõi trời này. Tuy nhiên, chúng ta chỉ cần hiểu Ngài là vị đứng đầu cõi trời Địa phủ.

Tuệ linh đầu tiên của Vũ trụ, chính Ngài là Tuệ linh đứng đầu quản lý và vận hành cõi trời Địa phủ làm nhiệm vụ giáo hóa, hỗ trợ các Tuệ linh, Linh hồn tu hành ở nhân gian. Đó là các Tuệ linh, Linh hồn khi tu hành ở nhân gian trong thân tướng con người và muông thú đã đi ngược bốn lời răn dạy của Ngài đã truyền dạy ở các cuộc tập kết xây dựng nhân loại, đi ngược và vi phạm vào giá trị đạo đức trong bốn hình tướng Đạo. Việc không thực hiện các lời răn dạy, việc vi phạm vào giá trị đạo đức của bốn hình tướng Đạo là biểu hiện của việc các Tuệ linh, Linh hồn đang chuyển sinh theo hướng phân rã và hoại diệt. Do đó, Ngài, với tình thương yêu bao la đến hết thảy Tuệ linh, con người nên đã thành lập cũng như đứng đầu để quản lý, vận hành sứ mệnh giáo hóa Tuệ linh, Linh hồn đang đi theo hướng chuyển sinh phân rã hoại diệt. Ngài thông qua những lời răn dạy và hình tướng Đạo đã được Ngài truyền dạy và xây dựng cho nhân loại để giáo hóa các Tuệ linh, Linh hồn nhận thức rõ được con đường họ đang chuyển sinh là phân rã hoại diệt, từ đó giảng dạy, chỉ dẫn cho họ con đường chuyển sinh bền vững. Thông qua những thành tựu về trí tuệ giác ngộ bởi chân tu của Ngài ở nhân gian trong việc tìm ra phương pháp ưu việt giúp chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, Ngài sẽ lấy giáo lý, chân lý, phương pháp đó để áp dụng giáo hóa các Tuệ linh, Linh hồn ở cõi trời Địa phủ.

Ngài là bậc trí tuệ vô lượng nhất của Vũ trụ, Ngài di chuyển khắp trong và ngoài Vũ trụ. Nhiệm vụ chính của Ngài là ở không gian lõi Vũ trụ, từ cõi trời này (lõi Vũ trụ), Ngài vận hành sự sống của toàn bộ Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Ngài vận hành thông qua cấu trúc nền của Vũ trụ, thông qua các mã sóng trí tuệ trong tất cả các dạng vật chất của Vũ trụ, bởi các dạng vật chất đó được cấu tạo từ năm nhóm năng lượng đã được phân tách từ Trụ linh của Ngài. Sự di chuyển của Ngài trong Vũ trụ chỉ cần bằng một ý nghĩ. Do đó, việc Ngài đứng đầu quản lý, vận hành, giáo hóa cõi trời Địa phủ là chuyện giản đơn. Đặc biệt, Ngài đã xây dựng các hội đồng trợ giúp công việc cho Ngài tại cõi trời này.

2.   Hội đồng Hoàn Đạo

Hội đồng Hoàn Đạo là hội đồng quản lý cao nhất tại cõi trời Địa phủ. Đây là hội đồng của các Tuệ linh có trí tuệ giác ngộ cao nhất tại cõi trời Địa phủ. Hội đồng Hoàn Đạo là hội đồng được quản lý trực tiếp bởi vị Tuệ linh đứng đầu.

Hội đồng Hoàn Đạo với ý nghĩa là hội đồng trí tuệ giác ngộ nhất tại cõi trời Địa phủ, là hội đồng giáo hóa, chỉ dẫn con đường, chỉ dẫn phương pháp giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn ở cõi trời này có hành trang tri thức chuyển sinh bền vững. Từ đó, khi luân hồi thân tướng kiếp mới, họ sẽ tu tập để đi đến sự thành tựu viên mãn của tu Đạo, đó là tu hành tới đích của sự giác ngộ thông qua hình tướng Đạo và Tâm Đạo với kim chỉ nam là bốn lời răn dạy của Ngài. Đó là Hoàn Đạo.

Nhiệm vụ của Hội đồng Hoàn Đạo:

  • Hội đồng Hoàn Đạo trực tiếp quản lý Hội đồng Hành pháp, Hội đồng Quản lý Hành chính và các cảnh sống tại cõi trời Địa phủ.
  • Hội đồng Hoàn Đạo tiếp nhận giáo lý, phương pháp giáo hóa chúng sinh tại cõi trời Địa phủ từ vị Tuệ linh đứng đầu.
  • Hội đồng Hoàn Đạo lưu giữ, quản lý hồ sơ của Tuệ linh và Linh hồn tu hành ở nhân gian. Đó là quản lý, lưu giữ sổ sinh và sổ tử.
  • Hội đồng Hoàn Đạo thực hiện tra xét, phán xử, luận thiện nghiệp, ác nghiệp của Tuệ linh, Linh hồn khi mới được về Địa phủ sau một kiếp thân tướng. Từ đó, dựa trên thiện nghiệp và ác nghiệp để sắp xếp cho họ an trụ vào các cảnh sống tương ứng.
  • Hội đồng Hoàn Đạo xây dựng, sắp xếp, triển khai các lớp học đạo để giáo hóa cho các Tuệ linh, Linh hồn từ khi được trở về Địa phủ cho tới khi được luân hồi xuống nhân
  • Hội đồng Hoàn Đạo trực tiếp giảng dạy, giáo hóa chúng sinh tại cõi trời Địa phủ theo kế hoạch của hội đồng.
  • Hội đồng Hoàn Đạo sẽ triển khai, mở lớp, thực hiện giảng dạy giáo hóa cấp tốc Tuệ linh, Linh hồn khi nhận được chỉ thị từ Tuệ linh đứng đầu. Những trường hợp này là do ở nhân gian, người tu đạo thấu hiểu về cõi trời Địa phủ, về sứ mệnh nhiệm vụ của các hội đồng. Khi thấu hiểu, họ tấu lễ nương tựa Tuệ linh đứng đầu và Hội đồng Giác ngộ giảng dạy, giáo hóa cho các Tuệ linh, Linh hồn vừa trở về Địa phủ hoặc đang trong các cảnh sống Địa ngục, cảnh âm. Đó chính là nghi lễ phổ độ của người tu đạo tại nhân gian.
  • Hội đồng Hoàn Đạo hỗ trợ, tạo điều kiện cho người tu hành thiền định tới cõi trời Địa phủ giáo hóa Tuệ linh, Linh hồn là người thân của họ. Để nhiệm vụ này được thực hiện thì người tu hành ở nhân gian phải thấu hiểu bốn lời răn dạy, thấu hiểu giá trị đạo đức của bốn hình tướng Đạo, thấu hiểu hai Chân lý, thấu hiểu con đường chuyển sinh bền vững an lạc. Khi đó, Tuệ linh của người thiền định sẽ được giám sát quá trình giảng giáo lý giáo hóa bởi Hội đồng Hoàn Đạo.
  • Hội đồng Hoàn Đạo lên kế hoạch và giao việc thực hiện cho Hội đồng Hành pháp và Hội đồng Quản lý Hành chính trong việc đón nhận Tuệ linh, Linh hồn sau khi hoại diệt thân tướng ở nhân gian được trở về Địa phủ, tu tập, học tập ở các cảnh sống và chuyển sinh kiếp thân tướng mới ở nhân gian.

3.   Hội đồng Hành pháp

Hội đồng Hành pháp là hội đồng thực thi các quy tắc, các pháp chế tại cõi trời Địa phủ. Đây là hội đồng được vận hành bởi các Tuệ linh có trí tuệ giác ngộ cao.

Hội đồng Hành pháp được quản lý trực tiếp từ Hội đồng Hoàn Đạo và từ Tuệ linh đứng đầu.

Nhiệm vụ của Hội đồng Hành pháp:

  • Thực thi nhiệm vụ từ Tuệ linh đứng đầu.
  • Thực thi nhiệm vụ từ Hội đồng Hoàn Đạo.
  • Thực thi nhiệm vụ trong sổ sinh và sổ tử, đó là đi bắt về các Tuệ linh, Linh hồn đang an trụ trong thân tướng con người vì không tu tập cải tạo Tuệ linh trong khi ác nghiệp đã tạo quá nhiều từ nhiều kiếp. Chính vì chân tu không chịu tu tập cải tạo nên Hội đồng Hành pháp sẽ dựa trên nghiệp ác quá nhiều mà bắt Tuệ linh, Linh hồn đó bỏ lại thân xác để về Địa phủ, để được giáo hóa lại rồi cho luân hồi kiếp mới. Điều này là giúp cho Tuệ linh, Linh hồn đó nhận thức được sứ mệnh tu hành và có hành trang cho kiếp mới biết tu tập để cải tạo chính họ trở nên bền vững an lạc.
  • Tiếp dẫn, đưa các Tuệ linh, Linh hồn tới nhân gian đầu thai sau quá trình tu dưỡng ở cõi trời Địa phủ.
  • Tiếp dẫn, đón các Tuệ linh, Linh hồn sau khi hoại diệt

thân xác kiếp thân tướng ở nhân gian để trở về Địa phủ.

  • Dẫn các Tuệ linh, Linh hồn bị đọa ở nhân gian do chết vì tai nạn, chết vì tự tử, chết do chiến trận, chết do đâm chém… được trở về Địa phủ sau khi đã trải nghiệm việc bị đọa ở nhân gian.
  • Dẫn giải, đón nhận các Tuệ linh, Linh hồn mắc kẹt ở nhân gian trở về Địa phủ khi họ được người tu hành siêu độ cho họ.

4.   Hội đồng Quản lý Hành chính

Hội đồng Quản lý Hành chính là hội đồng quản lý các cảnh sống, quản lý bộ máy và các thủ tục tại cõi trời Địa phủ. Đây là hội đồng được vận hành bởi các Tuệ linh có trí tuệ giác ngộ cao.

Hội đồng Quản lý Hành chính được quản lý trực tiếp từ Hội đồng Hoàn Đạo và từ Tuệ linh đứng đầu.

 

Nhiệm vụ của Hội đồng Quản lý Hành chính:

  • Thực thi nhiệm vụ từ Tuệ linh đứng đầu.
  • Thực thi nhiệm vụ từ Hội đồng Hoàn Đạo.
  • Quản lý cửa khẩu âm dương. Cửa khẩu âm dương là nơi mà các Tuệ linh, Linh hồn sau khi hoại diệt thân xác được đi qua để về Địa phủ, đồng thời cũng là nơi mà các Tuệ linh, Linh hồn đi qua để tới nhân gian luân hồi kiếp mới. Đây cũng là nơi đi vào cõi trời Địa phủ của các chân tu thiền định đi tới.
  • Quản lý vận hành cảnh sống tiếp nhận Tuệ linh, Linh hồn về Địa phủ, đó là cảnh các phòng tạm chờ phân xử thiện nghiệp, ác nghiệp của các Tuệ linh, Linh hồn khi mới tới Địa phủ trước khi phân vào các cảnh sống khác.
  • Quản lý vận hành các cửa ngục trong cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ.
  • Quản lý vận hành cảnh sống Địa âm, quản lý Tuệ linh, Linh hồn gia tiên của các dòng họ (các Tuệ linh, Linh hồn có cùng dòng họ khi sống ở nhân gian), quản lý cảnh sống lao động tự do, buôn bán, mưu sinh ở cảnh âm. Quản lý việc cung cấp, phát chẩn nhà cửa, phương tiện phục vụ cuộc sống cho Tuệ linh, Linh hồn ở cảnh Địa âm.
  • Quản lý vận hành cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng của các Tuệ linh và Linh hồn, đó là quản lý cảnh sống của các ngôi đồi âm đức của từng gia tiên dòng họ.
  • Quản lý vận hành các lớp học đạo, học giáo lý của các Tuệ linh, Linh hồn.
  • Quản lý các thủ tục tại cõi trời Địa phủ.

Như vậy, cõi trời Địa phủ với 3 hội đồng dưới sự điều hành, quản lý của Tuệ linh đứng đầu đã vận hành quản lý cũng như giáo hóa chúng sinh tại cõi này một cách khoa học, chặt chẽ. Điều này đã tạo ra sức mạnh lớn giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn sau một kiếp thân tướng có được kinh nghiệm, hành trang tri thức để chuyển sinh được trở nên bền vững hơn ở nhân gian.

***************

VI.   Các cảnh sống tại cõi trời Địa phủ

 

Cõi trời Địa phủ có 5 cảnh sống, bao gồm: Cảnh sống chờ phân xử, cảnh sống Địa âm, cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ, cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng, cảnh tu dưỡng học tập giáo lý. Năm cảnh sống này là 5 bức tranh thể hiện được đầy đủ về đời sống của các Tuệ linh, Linh hồn ở Địa phủ sau một kiếp thân tướng ở nhân gian. Đó là một hành trình từ khi được trở về Địa phủ, được đúc kết bài học kinh nghiệm tu hành, được học tập giáo lý, được giáo hóa, được tu dưỡng cân bằng năng lượng và tiếp tục luân hồi kiếp mới ở nhân gian.

Sự vận hành tuần tự theo 5 cảnh sống là quá trình thúc đẩy nhanh chóng việc các Tuệ linh, Linh hồn sau một kiếp người học được các bài học tu hành, được giáo hóa, được trang bị tri thức chuyển sinh bền vững, được cân bằng năng lượng cho kiếp chuyển sinh mới. Điều này giúp cho quá trình chuyển sinh luân hồi ở nhân gian được nhanh chóng và nhanh chuyển hóa được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng hơn.

Cõi trời Địa phủ không có ngày và đêm. Các cảnh sống được Tuệ linh đứng đầu tạo dựng thành các tầng năng lượng tiêu cực khác nhau, chân tâm, tích cực khác nhau để tạo thành môi trường thuận lợi nhất giúp các Tuệ linh học tập bài học tu hành cũng như cân bằng được năng lượng nhanh. Các tầng năng lượng của các cảnh sống được tạo thành dựa trên sự u mê bám chấp, sân, hận, tạo ác nghiệp khác nhau của Tuệ linh, con người khi sống đã tạo. Điều này tạo thành liên kết để hỗ trợ giáo hóa các Tuệ linh, Linh hồn được nhanh nhất.

Năm cảnh sống tại cõi trời Địa phủ:

1. Cảnh sống chờ phân xử

Cảnh sống chờ phân xử là những căn phòng lưu trú hoặc những phòng giam giữ các Tuệ linh, Linh hồn mới hoại diệt hết kiếp thân tướng trở về Địa phủ.

Các phòng lưu trú là dành cho những con người đến cung số tuổi thọ theo sổ sinh tử phải hoại diệt thân tướng. Khi đó các Tuệ linh, Linh hồn sẽ được đón về và lưu trú trong những căn phòng này. Sau khi hoại diệt thân tướng, Tuệ linh, Linh hồn sẽ được đi lại giữa hai Thế giới Âm (Địa phủ) và Dương (Nhân gian) để thăm lại các dấu ấn và người thân của kiếp người. Việc đi lại để thăm được người thân ở nhân gian sẽ có những Tuệ linh của Hội đồng Hành pháp đưa đi. Đến ngày 49 (tính theo ngày ở nhân gian) kể từ khi Tuệ linh, Linh hồn hoại diệt thân tướng ở nhân gian, họ sẽ được phân xử luận thiện và ác nghiệp. Sau khi Hội đồng Hoàn Đạo phân xử, giảng giải những ác nghiệp và thiện nghiệp, những Tuệ linh, Linh hồn này sẽ được chuyển sang sống ở các cảnh giới tương ứng với thiện hay ác nghiệp đã tạo ra ở nhân gian dựa trên năng lượng trong họ đã được cấu tạo bởi kiếp thân tướng.

Các phòng giam giữ là dành cho những Tuệ linh, Linh hồn khi sống trên nhân gian tạo quá nhiều ác nghiệp, hoặc là tạo quá nhiều ác nghiệp từ các kiếp trước mà kiếp này không chịu cải tạo. Họ sẽ bị hoại diệt thân tướng trên nhân gian do chưa tới cung số tuổi thọ trong sổ sinh tử. Đó là những người chết vì tai nạn, chết do tự tử, chết do đột tử, chết do linh hồn thú dữ truy giết, chết do vi phạm pháp luật nhân gian mà bị xử tử hình, chết do thiên tai, chết do dịch bệnh, chết do tu tập tà pháp thần thông mà đột tử. Vì chưa đến cung số theo sổ sinh tử, nên họ sẽ phải bị giam giữ trong các phòng tối để chờ đến đúng ngày giờ chết đã được ấn định trong sổ sinh tử thì mới được phân xử luận thiện – ác nghiệp. Khi phân xử, Hội đồng Hoàn Đạo sẽ giảng giải những ác nghiệp, những thiện nghiệp, con đường phân rã Tuệ linh, Linh hồn tới đâu. Tiếp đó, sẽ chuyển các Tuệ linh, Linh hồn đó vào các cảnh sống tương ứng với năng lượng ác nghiệp để đúc kết lại bài học tu hành trên nhân gian.

Sau khi các Tuệ linh, Linh hồn sống trong cảnh chờ phân xử, họ sẽ được chuyển tới các cảnh sống khác nhau dựa trên sự phân rã cấu trúc năng lượng trong Trụ linh mạnh hay yếu, tức là dựa trên thiện hay ác nghiệp đã tạo ra.

Nguyên tắc phân xử để chuyển cảnh sống:

  • Nếu sống mà bám chấp, không hành thiện cũng không hành ác, sau khi phân xử sẽ được sang cảnh sống Địa âm.
  • Nếu sống mà không bám chấp, chưa hành thiện cũng không hành ác sẽ được sống cảnh tu dưỡng năng lượng âm dương.
  • Nếu sống có tạo ác nghiệp và thiện nghiệp, họ sẽ sống trong cảnh Địa ngục – Ngã quỷ để học bài học của ác nghiệp đã tạo. Sau đó, họ sẽ sống cảnh sống Địa âm.
  • Nếu sống mà chỉ tạo ác nghiệp mà không tạo thiện nghiệp. Họ sẽ sống cảnh Địa ngục – Ngã quỷ, sau đó mới được chuyển sang cảnh âm.

2.   Cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ

Cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ là cảnh sống dành cho các Linh hồn, Tuệ linh khi còn sống trên nhân gian tạo nghiệp ác gây tổn hại vạn vật, muông thú và Tuệ linh, con người. Khi hoại diệt thân tướng ở nhân gian, sau khi phân xử luận công tội, họ sẽ phải sống trong cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ, đó là sống trong 7 đại cửa ngục ác nghiệp trong cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ.

Cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ là cảnh sống của những Tuệ linh, Linh hồn khi sống tạo ác nghiệp trên nhân gian. Mà nguồn gốc của hành động tạo ác nghiệp là Ngã quỷ, là độc Tâm, đó là gốc của chấp ngã, sân và hận. Cho nên, năng lượng trong cảnh sống Địa ngục và Ngã quỷ bao trùm là màu xám tối, đen tối và màu đỏ máu. Tầng năng lượng xám tối, màu đen, đỏ máu của Ngã quỷ là tầng năng lượng xấu, do đó những người tu thiền du linh xuống cảnh sống này nếu không có năng lượng tốt của màu trắng và màu vàng sẽ dễ bị nhiễm mà sinh khởi bệnh tật. Thậm chí có những người tu thiền du linh vào cảnh Ngã quỷ dưới Địa phủ đã bị các Tuệ linh ngã quỷ bắt lại, khi đó con cháu hoặc người thân tưởng người đó đột tử chết mà làm ma chay. Để thiền du linh xuống các cửa ngục và các cửa Ngã quỷ thì người tu hành phải có tầng năng lượng tốt trong tâm mới có thể an toàn đi tham quan các cảnh sống nơi Địa phủ.

Trong 7 đại cửa ngục ác nghiệp sẽ chia ra làm 6 đại cửa ngục dành riêng cho các linh hồn và một đại cửa ngục dành riêng cho các Tuệ linh. Tổng có 72 cửa ngục nhỏ từ 7 đại cửa ngục lớn. Cửa ngục của các Linh hồn gọi là cửa Địa ngục với 6 đại cửa lớn và tổng là 54 cửa ngục nhỏ. Cửa ngục của các Tuệ linh là cửa Ngã quỷ với một đại cửa Ngã quỷ lớn và tổng là 18 cửa Ngã quỷ nhỏ.

2.1.  Sáu đại cửa Địa ngục cho các Linh hồn

Linh hồn là cấu trúc năng lượng có trí tuệ di chuyển, cải tạo cuộc sống trên Trái đất. Họ đã từng bước xây dựng được tập tính, lối sống của con người là hóa thân của Tuệ linh (người Thiên ấn) tương tác cũng như dạy dỗ. Họ chính là Linh hồn của các con thú, Linh hồn của con người (người Nhân mệnh) được chuyển sinh từ Linh hồn an trụ trong thân tướng muông thú được an trụ trong thân tướng con người.

Sáu đại cửa Địa ngục giam giữ Linh hồn sau khi hết kiếp thân tướng ở nhân gian, trải qua 49 ngày lưu trú cảnh sống chờ phân xử. Vào ngày 49, khi phân xử, giáo hóa, các Linh hồn khi sống ở nhân gian mà phạm vào các ác nghiệp nhóm tội tương ứng sẽ phải đọa vào sống ở các cửa ngục khác nhau. Nếu Linh hồn phạm nhiều ác nghiệp thì sẽ phải trải qua hết tất cả các cửa ngục cho đến khi nào Linh hồn nhận thức được bài học ác nghiệp và sám tâm được ác nghiệp mình đã tạo ra thì mới được chuyển sang cảnh học giáo lý và sống cảnh sống Địa âm. Các cửa Địa ngục được sắp xếp từ nhẹ đến nặng như sau:

1-  Cửa Địa ngục lao động khổ sai:

+ Trong cửa lao động khổ sai được chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi sống Linh hồn đã gây ra.

+ Cảnh sống trong cửa ngục lao động khổ sai là hình ảnh các Linh hồn phải lao động khổ sai, khuân vác, đập đá, lao động cật lực không được ăn uống gì khi mà chân tay bị xiềng xích và bị hình ảnh các con quỷ đánh đập.

+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục lao động khổ sai: Lười lao động; chửi rủa đánh đập người lao động, chà đạp nhân phẩm người lao động; bóc lột, chiếm đoạt sức lao động của người khác.

2-  Cửa Địa ngục hành xác:

+ Trong cửa Địa ngục hành xác được chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi sống Linh hồn đã gây ra.

+ Cảnh sống trong cửa ngục hành xác là một khu vực gồm các con mãng xà, con trăn, con rắn, các loài thú khổng lồ. Những Linh hồn bị ném hay vứt vào trong đó. Những con ác thú đó trườn, truy đuổi cắn xé thân hình của các Linh hồn (họ cảm nhận thân hình họ giống với thân tướng khi sống trên nhân gian). Cảnh tượng này không ngừng nghỉ và diễn ra liên tục trong thời gian rất dài.

+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục hành xác: Nói dối gây thiệt hại về của cải, sức khỏe và tính mạng người khác; tội lừa đảo; tội trộm cướp; tội chiếm đoạt tài sản người khác; tội đánh đập muông thú; tội đánh đập hãm hại người khác.

3-  Cửa Địa ngục lao tối lạnh giá:

+ Trong cửa Địa ngục lao tối lạnh giá được chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi sống Linh hồn đã gây ra.

+ Cảnh sống trong cửa ngục lao tối lạnh giá là hình ảnh đêm tối lạnh giá, có mưa, có tuyết rơi, những Linh hồn bị những mũi tên băng bay xuyên vào tim, những Linh hồn hoảng loạn chạy trong đêm tối mưa rơi lạnh giá và bị các con thú khổng lồ truy đuổi để cắn xé ăn thịt, những Linh hồn không mặc quần áo bị treo trên cột và bị những con thú nhảy lên ăn thịt. Khi các Linh hồn chết (họ đang nghĩ đó là thân tướng như khi còn sống ở nhân gian) rồi lại tỉnh lại và lại bị truy giết đến chết rồi lại tỉnh lại, quá trình này lặp đi lặp lại trong khoảng thời gian rất dài.

+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục lao tối lạnh giá: Hành nghề sát sinh; giết hại muông thú làm thú vui; giết hại muông thú khác để thỏa mãn thú vui ăn uống, thông dâm, tà dâm, hiếp dâm; chửi rủa, đánh đập người khác; chà đạp nhân phẩm người khác.

4-  Cửa Địa ngục hành hình:

+ Trong cửa Địa ngục hành hình được chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi sống Linh hồn đã gây ra.

+ Cảnh sống trong cửa ngục hành hình là hình ảnh ngũ quỷ phanh thây, cảnh Linh hồn bị truy đuổi và giết chết, cảnh bị đẩy xuống vực sâu mà chết, cảnh bị đập vào đầu mà chết, cảnh bị giết chết và phanh xác… Cảnh Linh hồn bị giết lặp đi lặp lại nhiều lần trong thời gian rất dài.

+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục hành hình: Giết hại người khác; giết hại chính mình; phá, giết hại thai nhi.

5-  Cửa Địa ngục hỏa thiêu:

+ Trong cửa Địa ngục hỏa thiêu được chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi sống Linh hồn đã gây ra.

+ Cảnh sống trong cửa ngục hỏa thiêu là cảnh Linh hồn sẽ thấy bị các con quỷ đuổi bắt và ném vào vạc dầu mà chết cháy, bị các con quỷ ném vào núi lửa mà chết cháy, bị đốt chết, bị mũi tên lửa bắn vào mà chết, bị phóng hỏa mà chết cháy. Linh hồn bị hỏa thiêu chết đi sống lại trong thời gian rất dài.

+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục hỏa thiêu: Đánh đập, chà đạp, giết hại cha mẹ; đánh đập, chà đạp, giết hại thầy dạy; phóng hỏa giết hại người.

6-  Cửa Địa ngục băng giá:

+ Trong cửa Địa ngục băng giá được chia ra làm 9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi sống Linh hồn đã gây ra.

+ Cảnh trong cửa ngục băng giá dài vô tận. Những Linh hồn bị đóng băng, bị chôn vùi trong dòng sông băng, trong núi băng. Họ không động đậy được thân hình, họ lạnh buốt không thể diễn tả được. Sự lạnh buốt không thể diễn tả là bài học cho bản chất tạo ra quá nhiều ác nghiệp gây tổn hại lớn cho Tuệ linh, con người, vạn vật, muông thú. Họ sẽ phải mất thời gian dài vô tận, lâu nhất so với các cửa Địa ngục bài học ác nghiệp khác mới được chuyển sang cảnh sống âm.

+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục băng giá: Bán nước hại dân, tham ô tham nhũng, kích động chiến tranh; kích động xung đột dân tộc, tiết lộ bí mật quốc gia, phản bội Tổ quốc.

Những người Nhân mệnh nếu vi phạm vào chửi rủa Thiên Địa, chửi rủa Thánh thần, Phật, Chúa Trời, Thượng Đế, phá đình chùa, phá mồ mả gia tiên thì sẽ phải đọa hết tất cả lần lượt 6 đại cửa Địa ngục rồi mới được chuyển sang sống cảnh âm.

2.2.  Một đại cửa Ngã quỷ dành cho các Tuệ linh

Trong cửa Ngã quỷ dành cho các Tuệ linh (khi sống làm người họ được gọi là dòng người Thiên ấn) trên các cõi trời xuống nhân gian tu hành, nhưng vì tạo ác nghiệp nên sẽ bị đọa vào trong cửa ngục đặc biệt này. Cửa Ngã quỷ được cõi trời Địa phủ quản lý và dùng các tầng năng lượng của sự giác ngộ để giúp cho họ nhanh chóng thấu hiểu và học được bài học ác nghiệp đã tạo ra ở nhân gian khi sống trong thân tướng.

Cửa Ngã quỷ bao gồm 18 cửa nhỏ: Cửa lao động khổ sai có 3 cửa nhỏ; cửa hành xác có 3 cửa nhỏ; cửa lao tối lạnh giá có 3 cửa nhỏ; cửa hành hình có 3 cửa nhỏ; cửa hỏa thiêu có 3 cửa nhỏ; cửa băng giá có 3 cửa nhỏ. Cảnh sống ở các cửa ngục của Tuệ linh đều giống như cảnh sống các cửa ngục của Linh hồn. Cửa Ngã quỷ chỉ khác so với cửa Địa ngục là mức độ chịu hình phạt nặng hơn, sự giam giữ nghiêm ngặt hơn vì họ là Tuệ linh nên cấu trúc phóng xạ năng lượng âm rất mạnh và rất nguy hiểm đối với con người cũng như các Linh hồn khi tới gần họ. Khi các Tuệ linh bị đọa trong các cửa ngục

 

này thì họ sẽ hóa thành quỷ và ăn thịt, giết hại nhau đến chết thân hình của họ. Khi sống lại họ lại lặp đi lặp lại hành động tạo nghiệp như khi còn sống trên nhân gian. Hành động giết hại nhau đến chết và rồi sống lại cứ lặp đi lặp lại trong thời gian rất dài.

Cửa ngục băng giá của các Tuệ linh cũng dài vô tận, họ cần rất nhiều thời gian, nhiều hơn bất cứ cửa ngục nào để trải nghiệm lại những bài học ác nghiệp đã tạo khi sống ở nhân gian. Tuệ linh được về Địa phủ, được vào cửa ngục băng giá là điều đáng mừng đối với họ. Bởi với ác nghiệp tạo ra vô số như vậy thì họ chưa bị hoại diệt bởi sự phân rã hoàn toàn Tuệ linh là điều rất mừng. Được về Địa phủ, sống trong cảnh cửa ngục băng giá là vẫn còn cơ hội để cải tạo và chuyển sinh lại Trụ linh. Đáng mừng là vì vậy.

Những người Thiên ấn nếu vi phạm vào chửi rủa Thiên Địa, chửi rủa Thánh thần, Phật, Thượng Đế, Chúa Trời, phá đình chùa, phá mồ mả gia tiên thì sẽ phải đọa hết tất cả lần lượt 18 cửa ngục trong Ngã quỷ rồi mới được chuyển sang sống cảnh âm.

Tất cả các cửa ngục mà có hình ảnh con quỷ đuổi giết Linh hồn hay Tuệ linh, hình ảnh các con thú dữ giết hại Linh hồn hay Tuệ linh, hình ảnh có người đánh đập tra tấn Linh hồn hay Tuệ linh đều không phải là các Ngài ở Địa phủ, và cũng không phải có con quỷ hay dã thú nào hết. Đây là do ác nghiệp khi sống trên nhân gian mà họ đã tạo ra. Bởi những suy nghĩ từ bám chấp, tiêu cực cho đến hành động tiêu cực gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người đều được lưu giữ thành các hạt năng lượng trong Trụ linh và Tuệ linh, Linh hồn họ, đó là bởi cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng. Chính vì cơ chế phân tách, liên kết như vậy nên vị Tuệ linh

đầu tiên đã xây dựng các cảnh sống, các cửa Địa ngục có các tầng năng lượng ác nghiệp với vô số hạt năng lượng tiêu cực tương ứng để khi các Tuệ linh, Linh hồn tạo ác nghiệp khi sống ở nhân gian bị đưa vào đó sẽ tạo thành liên kết giữa các hạt năng lượng ác nghiệp mà tạo ra ảo ảnh, ảo thanh, ảo giác. Họ sẽ đắm chìm trong sự phản chiếu của ác nghiệp đã tạo ra ở nhân gian bởi cơ chế liên kết kỳ diệu này. Điều này đã khiến cho những bậc tu hành ở nhân gian không thể hiểu được và vẫn lầm tưởng là Địa ngục, Địa phủ có ác quỷ, có quỷ sai giết hại Linh hồn, Tuệ linh cũng như đi giết hại con người.

Tất cả các cảnh tra tấn, truy giết sẽ bị tiêu tan, Tuệ linh, Linh hồn sẽ thoát ra được các cảnh Địa ngục ngã quỷ nếu họ tĩnh tâm, buông xả được những bám chấp, tiêu cực và các hành động ác nghiệp. Khi đó, họ tin vào con đường họ đã và thực hành ác nghiệp ở nhân gian là sai trái, là con đường hoại diệt chính họ. Họ có niềm tin vào hai Chân lý, nguyện đi theo hai Chân lý. Khi đó, họ sẽ được đưa ra khỏi cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ để tham gia cảnh sống học giáo lý và chuyển sang cảnh sống Địa âm.

Khi các Linh hồn và Tuệ linh đang bị đọa trong Địa ngục – Ngã quỷ thì họ tuyệt đối không thể nhận bất cứ lễ vật gì do con cháu ở nhân gian cúng lễ dâng tiến. Họ chỉ nhận được năng lượng hành thiện hoặc năng lượng ác nghiệp từ con cháu và người thân ở nhân gian. Nếu con cháu và người thân hành thiện nghiệp thì họ nhanh ngộ được bài học ác nghiệp của họ. Nếu con cháu, người thân ở nhân gian hành ác nghiệp thì họ sẽ mất nhiều thời gian hơn để ngộ được bài học ác nghiệp của họ, họ chỉ ngộ được khi thấy con cháu, người thân trả giá cho những ác nghiệp đã tạo.

Khi mỗi dòng họ hay gia đình mà có Linh hồn, Tuệ linh bị đọa trong các cửa ngục thì gọi là động âm, tức là Linh hồn, Tuệ linh bị động tâm, chưa định thần nên con cháu sẽ không được yên theo do năng lượng của gia tiên tác động vào mong con cháu phổ độ gia tiên siêu thoát khỏi cảnh Địa ngục – Ngã quỷ. Khi mỗi dòng họ mà có nhiều Linh hồn, Tuệ linh bị đọa trong các cửa Địa ngục – Ngã quỷ thì trên dương gian con cháu sẽ gặp nhiều khó khăn trở ngại trong cuộc sống, thậm chí có nhiều người chết trẻ, đây là nghiệp cửu trùng của cả người sống và người đã chết trong dòng họ đó tích tụ lại mà nhận quả báo.

3.   Cảnh sống Địa âm

Cảnh sống Địa âm là cảnh sống của những năng lượng âm có sóng điện âm ở mức nhẹ. Năng lượng âm nhẹ được vị Tuệ linh đầu tiên tạo dựng cho cảnh sống này. Cảnh sống Địa âm là cảnh sống được chi phối bởi năng lượng tiêu cực nhẹ của sự bám định, ý nghĩ, tư tưởng tiêu cực. Đó là tư tưởng tiêu cực mong muốn, mơ mộng, khát khao được thỏa mãn giả tướng về mình một cách ích kỷ mà không vì lợi ích của Tuệ linh, con người và vạn vật. Cảnh sống Địa âm tượng trưng cho trí tuệ u mê bám víu, hút lấy giả tướng về mình mà chưa hành động gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Cảnh sống này không có năng lượng của ý nghĩ, suy nghĩ, tư tưởng tích cực.

Tầng năng lượng của cảnh sống Địa âm là màu xám sáng như chiều tối mà Mặt trời đã lặn. Năng lượng và không gian ảm đạm, yên tĩnh của sự suy tư âu sầu. Sự ảm đạm và không gian tỏa năng lượng màu xám sáng là do các Linh hồn, Tuệ linh vẫn còn bám định, chấp ngã, sân, hận nên mới tỏa ra năng lượng âm màu xám hòa quyện tầng năng lượng đã được kiến tạo của cảnh sống Địa âm. Điều này sẽ làm bài học rất giá trị để giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn học tập được cách thay đổi hệ tư tưởng để chuyển sinh theo hướng bền vững an lạc.

Đối tượng Tuệ linh, Linh hồn được sống cảnh Địa âm:

+ Cảnh sống Địa âm là cảnh sống dành cho các Linh hồn, Tuệ linh khi sống ở nhân gian có tư tưởng cho đến hành động không thiện cũng không ác.

+ Là cảnh sống dành cho các Tuệ linh, Linh hồn khi sống dù có tạo được những thiện nghiệp, nhưng vẫn có tư tưởng, ý nghĩ u mê tiêu cực, vẫn chấp ngã, sân và hận.

+ Tuệ linh, Linh hồn khi sống ở nhân gian tuy không tạo ác nghiệp những vẫn còn u mê, chấp ngã, sân, hận, nên phải sống trong cảnh sống Địa âm để nhận diện lại tư tưởng tiêu cực đó có lợi hay có hại cho con đường chuyển sinh.

+ Các Tuệ linh, Linh hồn sau khi được siêu thoát khỏi các cửa ngục và được học đạo thì sẽ được chuyển sang sống cảnh Địa âm để được lao động tự do và tiếp tục tu học cân bằng năng lượng cũng như tham gia các lớp học đạo để chuyển hóa trí tuệ và chuyển hóa cảnh sống sang cảnh sống cân bằng năng lượng.

Cảnh sống Địa âm có:

+ Nhà tranh mái ngói, nhà tranh mái lá, nhà gỗ, mỗi ngôi nhà chỉ vài mét vuông. Không có nhà tầng, nhà lầu, xe hơi, xe máy, xe đạp hay bất kỳ phương tiện khoa học kỹ thuật nào ở cõi trời Địa phủ.

+ Có chợ quê, có cánh đồng lúa, có cảnh lao động tự do buôn bán và sản xuất nông nghiệp, có thầy đồ dạy học, có thầy bốc thuốc… có đồi núi và ao hồ. Cuộc sống đơn sơ là để giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn nhanh chóng buông đi những bám định vào giả tướng ở nhân gian.

+ Có ngân hàng hay còn gọi là kho khố Địa phủ. Các Tuệ linh ở Hội đồng Quản lý Hành chính sẽ phát chẩn cho các Tuệ linh, Linh hồn được chuyển từ Địa ngục – Ngã quỷ ra sống cảnh Địa âm. Các Tuệ linh, Linh hồn sau khi sống cảnh chờ phân xử, sau khi phân xử ở ngày 49 mà không có ác nghiệp, nhưng vẫn u mê bám định, vẫn chấp ngã, sân, hận thì sẽ được nhận phát chẩn và sống ở cảnh Địa âm. Họ được cấp phát nhà cửa và công cụ lao động, tư trang quần áo và những đồ dùng cần thiết cho cuộc sống ở cảnh Địa âm. Các Tuệ linh, Linh hồn khi sống cảnh sống Địa âm sẽ không nhận được bất cứ đồ lễ gì từ con cháu ở nhân gian cúng lễ như tiền vàng, nhà lầu, xe cộ… Những vật chất ở nhân gian đều không thể gửi được đến cõi trời Địa phủ. Khi con cháu dâng lễ hay tri ân thì Tuệ linh, Linh hồn cũng chỉ nhận dòng năng lượng hành thiện hay tạo ác nghiệp hoặc năng lượng chấp ngã của con cháu chứ không ăn hay thụ hưởng được đồ lễ.

Cảnh sống Địa âm là dành cho các Tuệ linh, Linh hồn khi sống trên nhân gian có trí tuệ u mê mà chấp ngã, sân hận, nhưng chưa tạo nghiệp ác. Đó là cảnh sống mà các Tuệ linh, Linh hồn đã trải nghiệm ở cảnh sống Địa ngục chuyển sang. Do đó, họ vẫn còn u mê và bám chấp để thỏa mãn các giả tướng. Các Tuệ linh, Linh hồn ở cảnh sống này vẫn đòi hỏi con cháu cúng lễ nhiều, vẫn hay chấp nhặt người thân ở nhân gian. Sự chấp ngã dài lâu hay nhanh giác ngộ của Tuệ linh, Linh hồn vừa phụ thuộc vào việc tu hành của con cháu và người thân trên dương gian, vừa phụ thuộc vào quá trình tu học giáo lý của chính họ ở Địa phủ.

Để các Tuệ linh, Linh hồn nhanh giác ngộ để chuyển sang cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng thì con cháu ở nhân gian và Tuệ linh, Linh hồn ở cảnh Địa âm phải thực hiện như sau:

+ Tuệ linh, Linh hồn ngoài việc lao động, sinh hoạt ở cảnh sống Địa âm sẽ phải tham gia các lớp học đạo, học giáo lý do Hội đồng Hoàn Đạo giảng dạy.

+ Con cháu, người thân ở nhân gian phải hành thiện giúp đỡ chúng sinh; làm lễ phổ độ gia tiên để nhờ Hội đồng hoàn đạo thuyết pháp giảng giải cho cả gia tiên dưới Địa phủ; con cháu có khả năng thiền định xuống dưới Địa phủ nhờ Hội đồng Hoàn đạo triệu tập gia tiên mà thuyết giảng Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ để giúp gia tiên giác ngộ và chuyển được sang cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng; con cháu không đốt tiền vàng, các đồ giả tướng như nhà cửa, xe cộ, vì họ không thể nhận được thứ gì cả; không nên lễ bái cầu xin công danh hay tiền tài từ gia tiên, bởi họ đang cầu xin con cháu hành thiện để họ được nhận dòng năng lượng hành thiện đó mà giúp họ được siêu thoát sang cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng.

+ Khi con cháu, người thân ở nhân gian hành thiện, giúp đỡ chúng sinh thì năng lượng hành thiện đó sẽ được chuyển cho gia tiên khi ta tưởng nhớ, khi ta thắp hương tri ân gia tiên. Khi ta tri ân và thắp hương tưởng nhớ bằng tâm đức hành thiện có được sẽ giúp cho gia tiên dưới Địa phủ nhận được năng lượng đó mà gột rửa được chấp ngã. Khi đó các Ngài ở Hội đồng Quản lý Hành chính sẽ phát chẩn nhiều cho gia tiên, nhưng vì gia tiên đã giác ngộ nên không nhận những đồ phát chẩn, họ sẽ được chuyển sang cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng. Nhưng khi con cháu trên nhân gian làm nhiều việc ác, tạo ra nhiều ác nghiệp thì gia tiên dưới Địa phủ sẽ chấp vào đó mà không thể giác ngộ được, họ sẽ luẩn quẩn theo Tâm ngã quỷ của con cháu, luẩn quẩn theo nghiệp của con cháu. Cho dù con cháu ở nhân gian có đốt nhiều vàng mã, cúng lễ to đến mấy thì gia tiên cũng không nhận được một thứ gì hết.

Tuệ linh và Linh hồn tồn tại và phát triển dựa trên sự phân tách và liên kết hạt năng lượng bền vững ở họ chứ không phải là thụ hưởng vật chất. Do đó nếu gia tiên nhận được các tầng năng lượng hành thiện tích đức từ con cháu thì họ sẽ nhanh giác ngộ mà chuyển sinh kiếp người mới, nếu gia tiên nhận được các tầng năng lượng ác nghiệp từ con cháu thì họ sẽ đọa trong cửa ngục và cảnh âm lâu dài mà khó được giác ngộ để siêu thoát.

4.   Cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng

Cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng là cảnh sống có năng lượng tốt nhất ở cõi trời Địa phủ. Đây là cảnh sống cuối cùng mà các Tuệ linh, Linh hồn chuyển sinh về Địa phủ sau kiếp người sẽ phải sống trước khi luân hồi kiếp thân tướng mới ở nhân gian.

Cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng được vị Tuệ linh đầu tiên kiến tạo ra các tầng năng lượng tích cực có sóng điện dương. Nó tượng trưng cho sự cân bằng, sự giác ngộ ra lối sống tiêu cực ở kiếp người vừa qua, nó tượng trưng cho quá trình định hình tư tưởng tích cực cũng như tương tác năng lượng từ con cháu và người thân ở nhân gian. Đó là sự tích lũy của cả hội đồng gia tiên ở Địa phủ và con cháu ở nhân gian để tạo thành cơ chế liên kết năng lượng. Đó là cơ chế mà Tuệ linh, Linh hồn cần phải học và xây dựng để bản thể Tuệ linh, Linh hồn học tập được sự liên kết của tình yêu thương, giúp đỡ nhau, sống vì nhau, vì vạn vật, Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Do đó, không những cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng, mà tất cả các cảnh sống ở Địa phủ là nhằm giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn đang chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt từng bước học được ý thức hệ trong việc có trách nhiệm, biết hy sinh vì nhau, hy sinh vì Trời và người cùng toàn bộ Vũ trụ.

Đối tượng Tuệ linh, Linh hồn được sống ở cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng:

+ Các Tuệ linh, Linh hồn được chuyển đến từ cảnh sống Địa âm sau khi học đạo và được giác ngộ không còn chấp ngã, sân, hận nữa.

+ Các Tuệ linh, Linh hồn khi sống ở nhân gian không có chấp ngã, sân, hận, không tạo nghiệp, đã bắt đầu và giúp đỡ được vạn vật, Tuệ linh, con người, muông thú, sau khi hết kiếp thân tướng ở nhân gian và sống cảnh sống 49 ngày chờ phân xử sẽ được chuyển luôn sang cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng để cân bằng năng lượng và tu học giáo lý.

Cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng có các ngọn đồi thấp, thoai thoải, có nhiều cây xanh trùng trùng điệp điệp như bất tận. Mỗi một gia tiên dòng họ sẽ được sinh sống và tu luyện trên một ngọn đồi, được gọi là ngọn đồi âm đức của mỗi gia tiên dòng họ. Trong mỗi ngọn đồi âm đức thì mỗi một Tuệ linh, Linh hồn sẽ có các nấm đất rộng khoảng 1 mét vuông để ngồi hành thiền và nghe các vị Tuệ linh giác ngộ thuyết pháp và tu dưỡng cân bằng năng lượng chờ ngày đầu thai kiếp mới ở nhân gian.

Tầng năng lượng bao trùm cho cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng là năng lượng màu vàng nhạt. Đó là năng lượng định hướng cho các Tuệ linh, Linh hồn hướng tới tư tưởng và hành động giống với năng lượng đoàn kết. Bởi chỉ có tư tưởng và hành động theo năng lượng đoàn kết màu vàng mới xây dựng được cơ chế phân tách liên kết bền vững. Đó là con đường để chuyển sinh bền vững. Tuy nhiên, mỗi một ngôi đồi của gia tiên dòng họ lại có tầng năng lượng khác nhau, có gia tiên dòng họ thì có năng lượng màu vàng rực rỡ và cỏ cây xanh tốt, có gia tiên dòng họ thì chỉ có năng lượng màu trắng và cỏ cây tươi tốt, có gia tiên thì có năng lượng màu xám đen và đồi núi bị sạt lở, có gia tiên thì không có cỏ cây và năng lượng thì màu đen và đỏ máu.

Âm đức dòng họ gia tiên được thể hiện thông qua màu sắc năng lượng và sự tươi tốt hay không của cây cối tại mỗi ngôi đồi âm đức. Dòng họ nào có âm đức tốt là ngôi đồi âm đức có năng lượng màu vàng, trắng vàng, trắng, có cỏ cây xanh tốt, có nhiều cây cổ thụ. Dòng họ nào mà âm đức kém thì ngôi đồi âm đức bị sạt lở, năng lượng màu xám, đen, đỏ máu, cỏ cây không xanh tốt và không có cây cổ thụ. Dòng họ sắp đi đến diệt vong thì ngôi đồi âm đức có năng lượng màu đỏ máu, đen nhiều, đồi âm đức bị sụt, cỏ cây bị cháy hoặc chết. Ngôi đồi nào có nhiều năng lượng màu vàng thì dòng họ đó có các vị Tuệ linh giác ngộ rất cao hóa thân xuống và đang hành đạo rất tốt. Ngôi đồi nào có năng lượng màu trắng và phớt vàng thì dòng họ đó có các vị Tuệ linh giác ngộ cao hóa thân xuống đang hành đạo tốt. Ngôi đồi nào có năng lượng màu tím, màu hồng, màu xanh thì dòng họ đó có các bậc Thánh nhân hóa thân xuống cứu giúp dân tộc. Ngôi đồi nào có năng lượng màu đỏ máu thì con cháu có người tâm hóa quỷ đang hại người, hại dân tộc, hại chúng sinh. Ngôi đồi nào có năng lượng màu đen thì con cháu đang tạo nhiều nghiệp lực. Ngôi đồi nào có năng lượng màu xám thì con cháu ở nhân gian đang rất u mê.

Thông qua ngôi đồi âm đức của gia tiên dòng họ mà biết được con cháu dòng họ đang hành thiện nghiệp hay tạo ác nghiệp. Con cháu muốn giúp cho âm đức dòng họ được nâng cao và gia tiên nhanh được siêu thoát chuyển sinh kiếp mới thì con cháu phải hành thiện giúp vạn vật, Tuệ linh, con người hoặc thiền định xuống Địa phủ giảng Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ để truyền sự giác ngộ đó gia hộ cho gia tiên nhanh siêu thoát chuyển sinh.

5.   Cảnh sống tu học giáo lý

Cảnh sống tu học giáo lý là cảnh sống mà tất cả các Tuệ linh, Linh hồn tới Địa phủ sau một kiếp thân tướng sẽ phải tham gia. Nếu các Tuệ linh, Linh hồn mà không học hay chống đối việc học giáo lý, họ sẽ không được luân hồi kiếp mới. Do đó, việc tham gia tu học giáo lý là điều bắt buộc với tất cả chúng sinh cõi trời Địa phủ.

Việc lên kế hoạch mở các lớp học giáo lý thường xuyên theo định kỳ và đột xuất là do Hội đồng Hoàn Đạo thực hiện.

Việc giảng dạy giáo lý là do các Tuệ linh của Hội đồng Hoàn Đạo thực hiện. Đôi khi Tuệ linh đứng đầu sẽ giảng dạy.

Đối tượng được tham gia tu học giáo lý là tất cả Tuệ linh, Linh hồn sống ở Địa phủ. Khi sống ở nhân gian, họ đang chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt, tức là họ có tư tưởng cho đến hành động ích kỷ về họ mà không mang lại lợi ích hoặc gây tổn hại lợi ích của vạn vật, muông thú, Tuệ linh, con người.

Cảnh sống tu học giáo lý gồm có các lớp học sau:

+ Lớp học đặc biệt dành cho những Tuệ linh, Linh hồn bị hoại diệt thân tướng ở nhân gian khi chưa tới cung số tuổi thọ ấn định theo sổ sinh tử, tức là những Tuệ linh, Linh hồn này đã tạo nhiều ác nghiệp ở kiếp quá khứ mà kiếp này họ không cải tạo, dẫn tới hoại diệt thân tướng. Họ tạo nhiều ác nghiệp dẫn tới vi phạm pháp luật nhân gian mà bị tử hình. Họ chết do tai nạn, chết do đột tử bởi linh hồn thú dữ giết hại, chết do chiến tranh, chết do đâm chém, chết do tự tử, chết do thiên tai lũ lụt, chết do dịch bệnh. Vì chưa tới cung số phải chết, lại được những người tu hành siêu độ cho về Địa phủ, nên họ sẽ phải học lớp học giáo lý đặc biệt này. Lớp học này là giúp họ nhớ lại toàn bộ diễn biến kiếp thân tướng ở nhân gian. Sau khi học xong lớp giáo lý này mới được phân xử để phân sang các cảnh sống Địa ngục. Nếu con cháu ở nhân gian mà thấu hiểu hai Chân lý, thực hiện nghi lễ phổ độ cho họ, họ sẽ không phải đọa vào cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ nữa. Họ sẽ được sống cảnh sống lớp học giáo lý thay thế cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ.

+ Lớp học thay thế cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ: Đó là các Tuệ linh, Linh hồn sau khi trải qua cảnh sống chờ ngày 49 để phân xử sau khi hoại diệt thân tướng, đáng lẽ ra do ác nghiệp mà họ sẽ phải bị phân vào sống cảnh Địa ngục – Ngã quỷ. Tuy nhiên, vì được con cháu thấu hiểu hai Chân lý, đã thực hành nghi thức phổ độ cho gia tiên, cho vong linh (Tuệ linh, Linh hồn), nên họ sẽ được đặc cách không phải đúc kết bài học ác nghiệp trong cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ. Họ sẽ được tham gia lớp học giáo lý đúc kết bài học ác nghiệp đã tạo ở kiếp thân tướng vừa qua. Vì sự giác ngộ của con cháu, người thân, vì họ nương tựa vào hai Chân lý nên được Hội đồng Giác ngộ ở Địa phủ cho tham gia khóa học thay thế cho cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ. Khi hoàn thành khóa học, họ sẽ chuyển sang sống cảnh Địa âm.

+ Lớp học giáo lý dành cho những Tuệ linh, Linh hồn sống cảnh Địa âm: Các Tuệ linh, Linh hồn sống cảnh Địa âm phải tham gia lớp học này để học cách thay đổi tư tưởng, thay đổi suy nghĩ để không còn bám định u mê về giả tướng nữa. Khi hoàn thành họ sẽ được chuyển sang cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng.

+ Lớp học giáo lý dành cho những Tuệ linh, Linh hồn sống cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng: Các Tuệ linh, Linh hồn sống cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng sẽ phải tham gia khóa học này, họ học thiền định để cân bằng năng lượng, học những hành trang về tư tưởng hành động tích cực và chuyển sinh bền vững. Khi họ học xong, họ sẽ được chuyển sinh luân hồi kiếp thân tướng mới.

Như vậy, cảnh sống tu học giáo lý gắn liền với 4 cảnh sống trên để thông qua đó giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn nhanh chóng học được các bài học ác nghiệp, thiện nghiệp, từng bước thay đổi tư tưởng tiêu cực chuyển sang tư tưởng tích cực. Việc thay đổi đó sẽ giúp cho họ dễ thực hiện được chuyển sinh theo hướng bền vững và an lạc khi luân hồi kiếp mới.

***************

VII.  Hành trình chuyển sinh qua cõi trời Địa phủ sau kiếp thân tướng ở nhân gian

 Hành trình một vòng chuyển sinh luân hồi của con người và muông thú từ khi hoại diệt thân tướng cho tới khi trở về Địa phủ, sống trong các cảnh sống và chuyển sinh luân hồi tới nhân gian đầu thai kiếp mới sẽ trải qua quy trình như sau:

Hành trình 1: Con người, muông thú hoại diệt thân tướng sẽ chia ra làm hai trường hợp:

+ Trường hợp 1: Hoại diệt thân tướng ở nhân gian đúng với tuổi thọ ấn định theo sổ sinh tử. Chết do tuổi già, chết do bệnh tật dù tuổi thọ nhiều hay ít.

+ Trường hợp 2: Hoại diệt thân tướng ở nhân gian khi chưa tới tuổi thọ ấn định theo sổ sinh tử. Tức là những Tuệ linh, Linh hồn này đã tạo nhiều ác nghiệp ở kiếp quá khứ mà kiếp này họ không cải tạo, dẫn tới hoại diệt thân tướng. Họ tạo nhiều ác nghiệp dẫn tới vi phạm pháp luật nhân gian mà bị tử hình. Họ chết do tai nạn, chết do đột tử bởi linh hồn thú dữ giết hại, chết do chiến tranh, chết do đâm chém, chết do tự tử, chết do thiên tai lũ lụt, chết do dịch bệnh.

Hành trình 2: Hội đồng Hành pháp sẽ đón, tiếp dẫn, đưa các Tuệ linh, Linh hồn ở trường hợp 1 của hành trình 1 trở về Địa phủ.

Đối với trường hợp 2 của hành trình 1, cõi trời Địa phủ sẽ không đón về. Cõi trời Địa phủ để cho Tuệ linh, Linh hồn của họ quẩn quanh nơi họ hoại diệt thân tướng. Đó là kế hoạch để cho họ trải nghiệm bài học không trân trọng thân tướng tu hành, không trân trọng thân tướng mà tu tập cải tạo Tuệ linh. Kế hoạch để họ đọa ở nhân gian sẽ hoàn thành nếu những con người sống trên những mảnh đất mà họ bị đọa giác ngộ, được những con người đó siêu độ cho về Địa phủ thì họ được về Địa phủ. Hoặc được những người tu hành siêu độ cho họ về Địa phủ thì họ mới được về Địa phủ. Khi có con người giác ngộ để siêu độ cho họ về Địa phủ là hoàn thành kế hoạch bài học trải nghiệm của họ ở nhân gian. Hoàn thành là vì thông qua việc họ bị đọa như thế để con người biết được việc chết do ác nghiệp sẽ bị đọa mà không được siêu thoát, để con người có niềm tin vào Thế giới Tuệ linh, Linh hồn.

Hành trình 3: Tuệ linh, Linh hồn sẽ được lưu trú trong cảnh sống chờ phân xử. Họ chờ đến ngày thứ 49 sau khi thân tướng hoại diệt ở nhân gian để được phân xử công tội đã tạo ra khi sống ở nhân gian. Trong thời gian 49 ngày, Tuệ linh, Linh hồn vẫn được Hội đồng Hành pháp dẫn về nhân gian để thăm người thân, thăm những dấu mốc ký ức quan trọng của kiếp đó.

Hành trình 4: Phân xử Tuệ linh, Linh hồn ở ngày thứ 49 sau khi hoại diệt thân tướng ở nhân gian. Nếu Tuệ linh, Linh hồn tạo ác nghiệp đều phải đọa vào cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ. Nếu Tuệ linh, Linh hồn không tạo ác nghiệp nhưng còn chấp ngã thì sẽ được sống cảnh sống Địa âm. Nếu Tuệ linh, Linh hồn không tạo ác nghiệp, không chấp ngã, có sự giác ngộ và hành thiện thì sẽ được sống cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng.

Hành trình 5: Chuyển cảnh sống Tuệ linh, Linh hồn vào các cảnh sống tương ứng với ác nghiệp hay thiện nghiệp khi còn sống trên nhân gian.

Tuệ linh, Linh hồn sẽ phải đọa vào các cửa ngục Ngã quỷ do đã tạo ác nghiệp khi còn sống trên nhân gian.

Tuệ linh, Linh hồn sẽ được sống cảnh âm sau khi vượt qua thời gian đọa trong cửa ngục hoặc sau 49 ngày kể từ khi hoại diệt thân tướng, hoặc được con cháu phổ độ mà không phải sống cảnh Địa ngục – Ngã quỷ, họ được học đạo và sống cảnh Địa âm.

Tuệ linh, Linh hồn sẽ được sống cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng chờ ngày đầu thai do được chuyển từ cảnh sống Địa âm sang, hoặc sau 49 ngày hoại diệt thân tướng do phước báo mà được sống luôn cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng.

Hành trình 6: Tuệ linh, Linh hồn được luân hồi kiếp mới ở nhân gian. Sau thời gian tu luyện trong cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng đạt được sự cân bằng, lĩnh hội, học tập được tư tưởng sống tích cực, có đủ năng lượng tích cực cho sự an trụ vào thân tướng mới ở nhân gian, tùy theo ác nghiệp khi sống mà vẫn phải đọa thành súc sinh, tùy theo thiện nghiệp khi sống mà được chuyển sinh làm người ở kiếp mới.

Do năng lượng của chúng sinh khi sống ở nhân gian có chấp ngã, sân hận, tạo ác nghiệp, mà thiện nghiệp thì chưa nhiều, nên sau khi hết kiếp thân tướng, Tuệ linh, Linh hồn chưa thể định thần, không đủ năng lượng để đi về các cõi cũng như Địa phủ. Do đó, cõi trời Địa phủ đã có Hội đồng Hành pháp thực thi nhiệm vụ hỗ trợ các vong linh nhanh chóng đi được vào quy trình của vòng luân hồi chuyển sinh. Tuy nhiên, cõi trời Địa phủ vẫn đảm bảo kế hoạch của vị Tuệ linh đầu tiên là để cho các Tuệ linh, Linh hồn được trải nghiệm đủ khi bị đọa ở nhân gian sau khi hết kiếp thân tướng. Đó là kế hoạch để giúp cho con người đang sống nhận diện được khổ đau mà truy tìm con đường giác ngộ cũng như giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn mắc kẹt ở nhân gian được siêu độ về Địa phủ.

Sau một vòng chuyển sinh, dù có đọa thành súc sinh hay làm người ở kiếp mới thì đó là quy trình tuần hoàn các Tuệ linh và Linh hồn cần phải nhanh chóng trải qua. Bởi thông qua các khổ đau và kiếp nạn thì các Tuệ linh và Linh hồn mới có cơ hội cải tạo Trụ linh của họ thành bộ lọc năng lượng. Do đó sau khi hoại diệt thân tướng ở nhân gian, Tuệ linh, Linh hồn không được trở về Địa phủ để đúng quy trình luân hồi thì con đường tu hành của họ trong vô lượng kiếp còn dài. Có những Tuệ linh sau khi hết kiếp thân tướng vì ác nghiệp là tự tử, khi thiền định gặp họ đang đọa trong điền thổ đất đã trải qua gần 1000 năm. Như vậy việc luân hồi của họ bị gián đoạn quá lâu. Việc các thầy pháp, thầy tu, hành giả dùng pháp thuật trấn giữ vong hồn (Tuệ linh, Linh hồn sau khi hoại diệt thân tướng) để thực hiện mục đích riêng là đang tạo ác nghiệp cho chính họ và khiến cho các Tuệ linh, Linh hồn không được đi đúng theo quy trình chuyển sinh luân hồi.

Khi các Tuệ linh có cấu trúc năng lượng đa dương siêu mạnh, những bậc giác ngộ hóa thân xuống nhân gian làm nhiệm vụ, sau khi hoại diệt thân tướng, họ sẽ trở về cõi trời của vị Tuệ linh đầu tiên mà không phải trở về Địa phủ. Khi họ hoại diệt thân tướng, sẽ có các chư vị Tuệ linh từ cõi trời của vị Tuệ linh đầu tiên tới đón về.

***************

VIII.     Phương pháp siêu độ cho Tuệ linh,

Linh hồn sau kiếp thân tướng ở nhân gian

Siêu độ chính là một phần trong hóa độ để siêu thoát cho Tuệ linh, Linh hồn sau khi hết kiếp thân tướng ở nhân gian để nhanh chóng được chuyển sinh luân hồi kiếp mới.

1.  Siêu độ sẽ có 4 mức độ như sau

Mức độ 1: Siêu độ về Địa phủ sau khi hết kiếp thân tướng ở nhân gian. Ở mức độ này chỉ cần Tuệ linh, Linh hồn được trở về Địa phủ, dù là trong cửa ngục Ngã quỷ thì cũng đã là được siêu thoát về Địa phủ. Bởi có nhiều Tuệ linh, Linh hồn bị đọa ở nhân gian vì nhiều nguyên nhân nên không được trở về Địa phủ, họ không thể bước được vào vòng chuyển sinh luân hồi để tiếp tục tu hành cải tạo Tuệ linh. Dù là vào Địa ngục – Ngã quỷ thì cũng là đã được vào quy trình chuyển sinh luân hồi, nên cũng coi là điều rất tốt.

Mức độ 2: Siêu độ khỏi cảnh Địa ngục – Ngã quỷ sang cảnh sống Địa âm ở cõi trời Địa phủ. Đó là đẩy nhanh tốc độ giúp Tuệ linh, Linh hồn thấu hiểu ác nghiệp đã tạo ra ở nhân gian khi sống, giúp họ nhanh chóng định thần để Tâm không còn bấn loạn mà bị phản chiếu những hình ảnh truy giết, tra tấn hành hình nữa.

Mức độ 3: Siêu độ khỏi cảnh sống Địa âm để sang cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng. Đó là đẩy nhanh quá trình diệt chấp ngã của Tuệ linh, Linh hồn để chuyển sang cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng, chờ ngày chuyển sinh luân hồi đầu thai kiếp mới.

Mức độ 4: Siêu độ khỏi cõi trời Địa phủ để chuyển sinh luân hồi kiếp mới ở nhân gian. Dù có đầu thai thành súc sinh hay tiếp tục làm người thì vẫn là rất tốt và đáng mừng, vì họ đang được bước những bước dài trên con đường tu hành, phải trải qua nhiều kiếp để cải tạo được bộ lọc năng lượng viên mãn cho Tuệ linh, Linh hồn.

2.   Phương pháp siêu độ cho Tuệ linh, Linh hồn sau khi hết kiếp thân tướng ở nhân gian

Việc siêu độ cho Tuệ linh, linh hồn sau khi hết kiếp thân tướng ở nhân gian là để nhanh được chuyển sinh luân hồi kiếp mới.

+ Mỗi chúng sinh khi còn sống nên học tập, nghiên cứu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ, rời xa ác nghiệp và hành thiện giúp người, giúp vạn vật, giúp muông thú. Sau khi hết kiếp thân tướng ở nhân gian sẽ được trở về cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng ở cõi trời Địa phủ, hoặc trở về cõi trời của vị Tuệ linh đầu tiên. Cứ vận hành hai Chân lý trong việc cải tạo Trụ linh ở nhân gian sẽ giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn nhanh chóng cải tạo thành bộ lọc năng lượng chỉ trong vài kiếp tu hành nơi nhân gian.

+ Mỗi con người là bậc con cháu, nên học tập nghiên cứu Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ để thiền định đến cõi trời Địa phủ thuyết pháp hai Chân lý cho gia tiên trong tất cả các cảnh giới để gia tiên nhanh được siêu thoát từng cảnh giới. Nếu không có khả năng thiền định thuyết pháp thì dùng Chân tâm tấu Thiên Địa và nhờ Hội đồng Hoàn Đạo ở cõi trời Địa phủ giảng giáo lý hai Chân lý cho gia tiên.

+ Con cháu ở nhân gian phải hành thiện nghiệp, không hành nghề tạo ác nghiệp. Việc đó sẽ thúc đẩy cho gia tiên nhanh định thần và giác ngộ để siêu thoát các cảnh giới.

Đó là phương pháp siêu độ mà mỗi người đang sống ở nhân gian cần học tập, nghiên cứu, thực hành giúp đỡ các vong linh gia tiên (Tuệ linh, Linh hồn đã hết kiếp thân tướng ở nhân gian) nhanh chóng được các bậc giác ngộ ở cõi trời Địa phủ giáo hóa. Đó cũng là động lực, là sự nương tựa của gia tiên vào những người con cháu, người thân còn đang sinh sống ở nhân gian mà đã có sự giác ngộ.

Cõi trời Địa phủ có liên kết chặt chẽ với cõi nhân gian, và các cõi trời trong Vũ trụ cũng đều liên kết chặt chẽ với cõi nhân gian này. Việc liên kết chặt chẽ là để cho các Tuệ linh, Linh hồn thông qua môi trường tu hành ở nhân gian từng bước xây dựng được tình yêu thương, trách nhiệm, sự lan tỏa, sự giúp đỡ nhau. Quá trình này sẽ tạo thành cơ chế liên kết dây bởi những năng lượng dương và năng lượng chân tâm giữa các Tuệ linh, Linh hồn trong khắp Vũ trụ. Đó là con đường chuyển sinh bền vững an lạc để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng duy nhất. Tức là chỉ có con đường duy nhất là đứng ở vị trí đoàn kết để thấu hiểu hết tất cả các nhóm năng lượng như tiêu cực, tích cực phát triển, tích cực lan tỏa, tích cực chân tâm, tích cực đoàn kết để cùng nhau thấu hiểu, phát triển sự bền vững của cả Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Hiểu được điều này, mỗi người, mỗi muông thú, mỗi Tuệ linh, mỗi Linh hồn sẽ sống vì nhau, không ích kỷ cho bản thể mình. Như vậy, con đường thành Đạo viên mãn sẽ nhanh đạt tới đích cuối cùng.

***************

Phần kết:

Những tri thức siêu việt trong cuốn “Hai Chân Lý Với Bát Không Hoàn Đạo” đã giải mã tận cùng: cội nguồn của Vũ trụ; cội nguồn của nhân loại; bản chất của tất cả Trụ linh của Tuệ linh; bản chất của tất cả vạn vật trong Vũ trụ; bản chất của năng lượng hoại diệt; nguyên nhân khổ đau của Tuệ linh, con người và vạn vật trong Vũ trụ; các con đường chuyển sinh của Tuệ linh, con người và vạn vật Vũ trụ. Đặc biệt, tri thức siêu việt của hai Chân lý đã đưa ra được con đường, phương pháp siêu việt nhất để tất cả Tuệ linh, con người cùng nhau thực hành chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Đắc được bộ lọc năng lượng chính là đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.

Để đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, tất cả Tuệ linh phải tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian. Thông qua hình tướng Đạo để tìm được Tâm Đạo, đó là tìm được con đường giải thoát khổ đau của dạng sống Tuệ linh, con người và vạn vật bên trong và bên ngoài Vũ trụ.

Đặc biệt, tri thức siêu việt của Hai Chân lý đã hợp nhất, thống nhất được giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Điều này cho thấy rằng, tất cả đều là vật chất, đó là các nhóm vật chất khác nhau bởi sự hợp thành từ những loại hạt năng lượng tận cùng có mã sóng rung động từ giản đơn cho tới siêu phức tạp.

***************

Rate this post