Ý nghĩa câu niệm “Nam mô A DI DI ĐÀ Phật”

1. Bài thần chú Tịnh Độ Tâm

Sự hợp nhất phát nguyện lực của chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ chính là sự hợp nhất giữa ngài A DI DI ĐÀ và Đức Phật Thích Ca để thành danh hiệu mới “Đức Ngũ Âm Hóa Đồng”, đó là sự kết hợp giữa hai chân lý để tạo ra câu thần chú niệm danh hiệu của hai chân lý nhiệm màu vô lượng. Đó là thần chú “Tịnh độ tâm”. Câu niệm:

“Nam mô A DI DI ĐÀ Phật”

 

nam mô a di di đà phật

a) Căn nguyên hình thành câu thần chú

Như đã biết Đấng tạo hóa có danh hiệu gốc là A DI DI ĐÀ, ngài đã sáng tạo ra luật nhân quả, chính là chân lý vạn vật để bảo vệ dòng chảy xuyên suốt của quy luật tự nhiên là duy trì phát triển sự sống khắp cõi trời trong vũ trụ. Do đó khi nghĩ đến ngài A DI DI ĐÀ thì nghĩ ngay đến luật nhân quả, chân lý vạn vật. Ngài đã tạo hóa ra vạn vật, tạo ra môi trường tu hành dưới nhân gian để cho các tuệ linh khắp các cõi trời hóa thân xuống tu hành tìm ra con đường Đạo để cải tạo trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhằm xây dựng và bảo vệ sự sống khắp vũ trụ. Do đó ngài A DI DI ĐÀ là hình tướng của Đạo, ngài chính là vạn vật vũ trụ, vạn vật vũ trụ là ngài, ngài là nhân quả, nhân quả là ngài. Trí tuệ của ngài là trí tuệ bậc nhất trong tất cả các tuệ linh trời người, không có gì vượt qua khỏi luật nhân quả của ngài.
Kiếp trước của Đức Phật Thích Ca sinh ra trong dòng họ Thích Ca, ngài là một vị vua anh minh, ngài đã giác ngộ được chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ để trị vì quốc gia đó được quốc thái dân an bằng hai chân lý. Ngài là người đầu tiên trong vô số tuệ linh trời người tìm ra và thấu hiểu được chân lý vạn vật của Đấng tạo hóa, và ngài lại giác ngộ được chân lý giác ngộ để cải tạo được trụ linh của mình thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Do đó sau khi ngài nhập diệt ở kiếp đó trở về với cõi trời A DI DI ĐÀ đã được ngài A DI DI ĐÀ sắc phong quả vị Phật và quả vị Không, đồng thời được ngài A DI DI ĐÀ truyền toàn bộ thân pháp và trí tuệ cho Tuệ linh ngài Thích Ca, và tuệ linh ngài Thích ca đã truyền toàn bộ tâm từ bi vô lượng cho ngài A DI DI ĐÀ. Việc hai ngài truyền cho nhau trí tuệ và tâm pháp đã khiến cho các tuệ linh cõi trời đó đồng vang hát niệm danh hiệu hai ngài là “Nam mô A DI DI ĐÀ Phật”. Sự kiện đó đánh dấu việc hai ngài đã đắc được quả vị Không, bởi Tuệ ngài Thích Ca là tuệ linh đầu tiên trong vũ trụ đắc được bộ lọc năng lượng là do ngài A DI DI ĐÀ gieo duyên trên con đường tu hành trong vô lượng kiếp để chứng ngộ mà đắc, và việc ngài Thích Ca đắc được bộ lọc năng lượng thì đó cũng là thành quả của ngài A DI DI ĐÀ. Sau đó Tuệ ngài Thích Ca mới phát nguyện xuống để truyền dạy giáo lý của hai chân lý cho chúng sinh trời người. Nhưng sau kiếp ngài Thích Ca hành đạo và khi ngài nhập diệt thì Ma vương lại xâm lấn vào hàng đệ tử của ngài trong nhiều đời và đã chỉnh sửa mất danh hiệu gốc của hai ngài, và khi chúng sinh trì niệm sẽ không con nhiệm màu bởi ánh sáng vô lượng từ hai chân lý.
Đứng trước nguy cơ hai chân lý bị hoại diệt, hai ngài lại tiếp tục gieo duyên xuống nhân gian để cho chúng sinh trời người biết được sự thật về danh hiệu gốc của hai ngài là “A DI DI ĐÀ Phật”, để cho chúng sinh nương tựa được vào sức mạnh của hai chân lý như mặt trời tỏa ánh sáng hào quang vô lượng.

b) Phương pháp trì tụng câu thần chú

Khi trì tụng phải thấu hiểu ngài A DI DI ĐÀ chính là luật nhân quả, là chân lý vạn vật, là hình tướng Đạo, là người Cha vĩ đại của trời người. Ngài Thích Ca là tâm Đạo, là chân lý giác ngộ, là Tâm từ bi vô lượng, là Phật, là Thầy của trời người. Và phải hiểu niệm “Nam mô A DI DI ĐÀ Phật” là con nguyện hành theo chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ của hai ngài.
Khi trì tụng phải nghĩ về hai ngài và phải hiểu danh hiệu gốc của hai ngài là ngài A DI DI ĐÀ và Đức Phật Thích Ca hoặc nghĩ về danh hiệu mới của hai ngài là “Đức Ngũ Âm Hóa Đồng”.

c) Tác dụng của thần chú

Khi hành giả hành thiền, trong lúc thiền định đi cảnh giới, gặp quỷ, tinh tà, chỉ cần dơ tay phải hướng đến và niệm “Nam mô A DI DI ĐÀ Phật” thì quỷ và tinh tà sẽ bị hóa về địa phủ để các ngài giáo hóa. Nếu quỷ đóng giả các vị Phật hay các vị thần thành, thì khi niệm sẽ khiến cho quỷ hiện nguyên hình và bị ánh sáng nhiệm màu của hai chân lý chuyển về địa phủ để các ngài giáo hóa.
Khi hành giả đang có quỷ, tinh tà nhập trong người, niệm nhiều niệm “Nam mô A DI DI ĐÀ Phật” sẽ được hai ngài truyền năng lượng màu vàng để siêu thoát cho quỷ và tinh tà đang nhập trong người niệm và cân bằng năng lượng âm lượng cho người trì tụng hàng ngày.
Khi hành giả trì tụng và hướng tay phải về điền thổ, nơi có nhiều người chết, nơi có bùa chú, âm binh, tinh tà, quỷ đang ngự thì sẽ được ánh sáng màu vàng từ bi độ cho họ về địa phủ để được giáo hóa giác ngộ.
Khi trì tụng bên cạnh người sắp thoát tục hoặc người sắp thoát tục trì tụng sẽ được ánh sáng hào quang nhiệm màu của hai ngài bảo vệ không bị quỷ đến nhập vào hay bắt mất linh hồn.
Thần chú niệm danh hiệu hai ngài chính là Pháp hóa độ, phổ độ, cứu độ chúng sinh trời người. Tuyệt nhiên không thể niệm để cầu được về đất phật, bởi khi niệm mà cầu như vậy sẽ không được hai ngài tiếp dẫn. Thần chú danh hiệu của hai ngài là để bảo vệ người tu hành có được sức mạnh từ hai ngài mà nương tựa trên con đường vượt qua khổ đau kiếp nạn để đắc đạo viên mãn

2. Bài thần chú Nhật Sư Tâm Chú

Đức Phật Thích Ca với tầng năng lượng hào quang màu vàng như mặt trời tỏa sáng rực rỡ đã chiếu độ an trụ khắp các cõi trời trong vũ trụ để gieo duyên và giáo hóa tất cả tuệ linh trời người trong vũ trụ. Đó là việc ngài chuyển hóa chân lý giác ngộ thành Tâm chú nhiệm màu vô lượng để cho chúng sinh và tuệ linh trời người nương tựa và đón nhận năng lượng sức mạnh từ bi của ngài.

a) Căn nguyên hình thành bộ thần chú

Để hai chân lý được lan tỏa khắp nhân gian tại kiếp ngài là Đức Phật Thích Ca thì đó là thành quả mà ngài đã tu hành trong nhiều đời nhiều kiếp của ngài, để tri ân công đức tu hành trong nhiều đời nhiều kiếp và tại kiếp mà ngài truyền giáo lý của hai chân lý, các tuệ linh khắp các cõi trời đều tôn xưng danh hiệu ngài là Đức Nhật Sư – Thích Ca Mâu Ni Phật, đó là người Thầy của trời người đang mang ánh sáng sự thật của hai chân lý đi hóa độ chúng sinh trời người. Vì ngài đã đắc được bộ lọc năng lượng trong trụ linh mà tuệ linh ngài đã tỏa tầng năng lượng màu vàng rực rỡ như mặt trời tỏa ánh sáng, đó là ánh sáng từ bi của sự thật khiến cho màn đêm giả dối u mê chuyển hóa thành giác ngộ sự thật như mặt trời tỏa sáng ban ngày. Tầng năng lượng màu vàng của ngài chính là kim thân của ngài, tầng năng lượng của ngài tỏa sáng và an trụ khắp các cõi trời gọi là kim thân của ngài đã an trụ khắp các cõi trời.
Đứng trước sự hoại diệt của hai chân lý, sự mê lầm của chúng sinh trời người, ngài đã phát nguyện lực tỏa kim thân của ngài an trụ khắp các cõi trời để chúng sinh nương tựa vào tâm pháp của ngài và được ngài gia hộ, dẫn dắt đến bến bờ của sự giác ngộ mà không phân biệt chúng sinh trời người. Tâm pháp của ngài chính là kim thân của ngài, vì vậy ngài chuyển hóa tâm pháp thành thần chú “Nhật Sư – Tâm chú” để dẫn dắt chúng sinh thấu hiểu và hành theo hai chân lý của hai ngài.
NHẬT SƯ – TÂM CHÚ

“Nam Mô Nhật Sư – Bồ Đề Tâm Phật
Kim thân – Nhật lai, khắp cõi. Độ
Ma đạo, khổ khổ, tam đọa trùng
Kim thân – Nhật lai, ứng – Hóa độ
Ma đạo – Hồi tâm, Tiếp – Ứng đạo
Nhật lai, nhật lai, nhật lai, Hoàn đạo”.

b) Phương pháp trì tụng bộ thần chú

Khi trì tụng phải thấu hiểu Nhật Sư – Tâm chú là thần chú tâm pháp mà Đức Nhật sư – Thích ca Mâu Ni Phật đã chuyển hóa từ chân lý giác ngộ của ngài tạo thành bộ thần chú nhiệm màu vô lượng; đó là ánh sáng vô lượng của “Tâm từ bi – Bồ đề Tâm” do công đức tu hành trong vô lượng kiếp mà chiếu độ đến khắp các cõi trời. Và phải hiểu ngài là Phật tổ.
Khi trì tụng phải nhất tâm nghĩ về Đức Ngũ Âm Hóa Đồng và có niềm tin về Đức Nhật Sư Thích Ca.
Trước khi trì tụng “Nhật Sư – Tâm chú” thì phải trì tụng “Tịnh Độ Tâm”.

c) Tác dụng của bộ thần chú

Trong tam giới thiên – địa – nhân có “Tam đọa trùng” là đọa ngã quỷ, đọa súc sinh, đọa địa ngục, trong đó:
+ Đọa ngã quỷ: Là bao gồm hết thẩy các tuệ linh xuống nhân gian tu hành mà tâm chấp ngã sân hận, dẫn đến tạo nghiệp gọi là Ngã quỷ; những Ngã quỷ này sau khi thoát tục cõi trần sẽ đọa vào cửa Ngã quỷ của cõi trời Địa Phật để tu sám tâm rồi luân hồi trên nhân gian; trải qua nhiều kiếp tạo nhiều ác nghiệp, sẽ có những ngã quỷ sẽ không hồi tâm mà được dẫn dắt về cõi trời của Quỷ. Cõi trời quỷ luôn gieo rắc các cảnh ma để cho chúng sinh hưởng lạc mà quên đi cội nguồn và sứ mệnh của nhân loại, chúng an trụ khắp cõi trần nhân gian để tạo ra chiến tranh, tiêu diệt sự sống của cõi trần nhân sinh này, bắt tuệ linh và linh hồn về giáo hóa thành quỷ mới; tinh tà cũng tu theo quỷ nên trở thành phục dịch cho chúng;
+ Đọa súc sinh: Là súc sinh (muông thú), và những chữ nhân trong cõi trần nhân sinh có tâm ngã quỷ cũng là súc sinh; là những chữ nhân tạo ác nghiệp sau khi trả nghiệp tại địa ngục phải đọa thành súc sinh do ác nghiệp kiếp trước theo luật nhân quả báo ứng;
+ Đọa địa ngục: Là những chữ nhân trong cõi trần nhân sinh đã tạo ác nghiệp, sau khi thoát tục cõi trần sẽ phải đọa vào địa ngục; những chữ nhân sống tại cõi trần nhân sinh do kiếp trước tạo nhiều ác nghiệp nên cũng phải sống trong cảnh địa ngục của bệnh tật, chiến tranh, sát hại nhau, mê tín dị đoan, lừa hại nhau.
Tất cả tam đọa trùng đều gọi là “Ma đạo”.
Vì “Kim thân – Nhật lai” là ánh sáng màu vàng tỏa hào quang vô lượng của ngài là hai chân lý đã an trụ tất cả các cõi trời để hóa độ, phổ độ, cứu độ chúng sinh. Khi xung quanh người trì tụng bộ thần chú này có ma quỷ, tinh tà, âm binh, cô hồn, vong linh sẽ được ánh sáng năng lượng của ngài siêu độ và hóa giải cho họ sớm luân hồi tu hành cải tạo trụ linh. Khi người trì tụng bộ thần chú này thì sẽ được ngài gia hộ truyền năng lượng màu vàng vào người trì tụng để họ cân bằng được năng lượng âm dương trong cơ thể, khiến cho ma quỷ nếu đã an trụ trong người sẽ được siêu thoát, khiến cho ma quỷ bên ngoài không thể xâm nhập vào người trì tụng. Dù hết thẩy ma đạo khắp các cõi trời khi hồi tâm hướng Phật sẽ được ánh sáng nhiệm màu của Phật hóa giải ma đạo, tiếp dẫn tu hành hoàn Đạo viên mãn. Và đặc biệt khi trì tụng bộ thần chú này sẽ nhận được sức mạnh tâm từ bi của ngài để dễ dàng vượt qua được các kiếp nạn khổ đau trên hành trình tu hành cải tạo trụ linh được bộ lọc viên mãn.

3 . Bài thần chú Bát Không Phật Đạo

a) Nguồn gốc hình thành Bát Không Tâm Chú

Bát Không Chân Kinh (Bát Không Phật Đạo) hay còn gọi là Bát Không Tâm chú là kết tinh của chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ thông qua 8 bài giảng về hình tướng, về trí tuệ, về tâm, về hành, về đạo, về tuệ, về phật, về nguyện của tất cả vạn vật trời người trong vũ trụ. Bát Không Chân Kinh là lý luận thật nhất, là sự thật của vạn vật vũ trụ. Thông qua chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ như là mặt trời chiếu sáng sự thật của vạn vật trời người vũ trụ, xua tan đêm tối mịt mù u mê mà quỷ đã gieo rắc cho chúng sinh. Là bảng tham chiếu sự thật cho trời người trong vũ trụ nhìn nhận, thấu hiểu và hành đạo đúng tại cõi trần nhân sinh này để nhanh chóng quá trình cải tạo thành công viên mãn bộ lọc năng lượng cho tuệ linh. Khi mỗi hành giả, mỗi chúng sinh thấu hiểu chân lý vạn vật và chân lý giác ngộ, dùng hai chân lý đó để thấu hiểu từng bài trong Bát Không Chân Kinh và hành đạo cải tạo chính mình và cải tạo thế giới quan thì trong chính tâm của mỗi hành giả sinh khởi được tầng năng lượng màu vàng. Tầng năng lượng màu vàng là sức mạnh của tâm từ bi vô lượng, là sức mạnh của sự thật để hóa giải hết thẩy ma đạo, tiếp dẫn chúng sinh trên con đường Hoàn Đạo viên mãn. Đó là tâm pháp, là bộ lọc năng lượng trong trụ linh của tuệ linh để tỏa ra tầng năng lượng khí vàng nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển sự sống của vũ trụ.
Khi Thấu hiểu Bát Không Chân Kinh thì tinh tà, ma quỷ không thể an trụ trong ta được. Khi chưa thấu hiểu thì hành giả cần nương tựa vào thần chú của Bát Không Chân Kinh (thần chú Bát Không Phật Đạo), bởi Bát Không Chân Kinh là mặt trời của hai chân lý, do đó hành giả nương tựa vào Bát Không Chân Kinh là nương tựa vào ánh sáng mặt trời của hai chân lý. Nương tựa vào ánh sáng mặt trời để an vui trong sự thật, để rời xa cảnh mê lầm u mê như đêm tối mịt mù của ngã quỷ. Khi đã thấu hiểu Bát Không Chân Kinh thông qua hai chân lý thì đó là cảnh ta đã an trụ và sống trong ánh sáng mặt trời. Đó là sức mạnh của Đức Ngũ Âm Hóa Đồng đã và đang hóa độ, phổ độ, cứu độ hết thẩy chúng sinh trời người, tiếp dẫn chúng sinh trời người đến đích của con đường giác ngộ viên mãn.
Bát Không Phật Đạo

“Nam Mô Nhật Sư – Bồ Đề Tâm Phật
Tâm Hành. Hóa:
Tướng Vô Tướng, Trí Vô Trí
Tâm Vô Tâm, Hành Vô Hành
Đạo Vô Đạo, Tuệ Vô Tuệ
Phật Vô Phật, Nguyện Vô Nguyện
Hành Giả Tâm Hành. Hóa
Bát Không Phật Đạo, Nhất Tâm Giác Ngộ”.

b) Phương pháp trì tụng bộ thần chú

Nghĩ về Đức Ngũ Âm Hóa Đồng: Ngài A Di Di Đà và Nhật Sự Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tụng bộ thần chú này bất cứ nơi đâu và trong mọi hoàn cảnh: giải bùa, đi đường bất an, ở nơi điền thổ, chùa chiền, đền thờ mà thấy bất an bởi quỷ và tinh tà hay âm binh, ở nơi có âm binh…

c) Tác dụng của bộ thần chú Địa Phật – Tâm chú

Bát Không Phật Đạo chính là Bát Không Chân Kinh, là thần chú của tất cả thần chú, là pháp của tất cả pháp, là trí tuệ giác ngộ vô lượng, là tâm từ bi vô lượng, là mặt trời tỏa ánh sáng hào quang màu vàng vô lượng. Do đó không có pháp môn nào trong vô lượng trời người có thể dẫn dắt chúng sinh đến con đường Hoàn Đạo viên mãn như Bát Không Chân Kinh. Vì vậy khi tụng bài chú này thì Quỷ, tinh tà, âm binh, cô hồn, bùa chú sẽ được thần lực của hai ngài hóa độ cho họ siêu thoát.

 

giác ngộ

Rate this post

Bài viết liên quan