Bài 12: Cuộc di cư lịch sử của dạng sống Tuệ linh và dạng sống con người xuất hiện

Để tạo được môi trường sinh sống và tu luyện cải tạo luyện Trụ linh của các Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng, Người Cha vĩ đại sẽ phải tìm một hành tinh có chứa đựng đầy đủ các điều kiện khắc nghiệt nhất, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, khắc nghiệt trong đấu tranh sinh tồn, sự phức tạp hóa trong cuộc sống và cuộc sống không có gì ngoài khổ đau. Bởi cõi trời của Ngài đã quá nhiệm màu và thanh tịnh từ vạn vật đến các Tuệ linh, điều đó đã làm cho các Tuệ linh không thể luyện được Trụ linh có khả năng hấp thụ được năng lượng của khổ đau, năng lượng hoại diệt, để chuyển hóa thành năng lượng tốt. Chính vì thế chỉ có tạo ra một môi trường sống ngược lại với sự thanh tịnh và nhiệm màu, đó là không có gì ngoài khổ và sự khắc nghiệt cùng cực thì mới khiến cho các Tuệ linh tu luyện cải tạo Trụ linh thành công.

Để thực hiện được kế hoạch 1 – kế hoạch xây dựng nhân loại, Ngài đã gieo vô số phôi năng lượng âm dương. Phôi âm dương chính là duyên. Ngài gieo duyên đến khắp các hành tinh trong Vũ trụ để tìm ra hành tinh có đủ điều kiện sống khắc nghiệt mà vẫn duy trì được sự sống cho các Tuệ linh. Ngài đã tìm ra được hành tinh phù hợp, đó là Trái đất. Tại sao Trái đất lại là điều kiện lý tưởng để Ngài xây dựng nhân loại và là môi trường tu hành cho các Tuệ linh? Bởi Trái đất quay xung quanh Mặt trời, Mặt trăng quay xung quanh Trái đất, các hành tinh khác cũng theo đó mà quay xung quanh nhau tạo thành quỹ đạo di chuyển có sự cân bằng về năng lượng âm dương, đó là lực đẩy và lực hút giữa các hành tinh mà tạo ra sự duy trì cân bằng năng lượng âm dương. Đây là điều kiện lý tưởng để các hành tinh không bị va đập vào nhau gây hủy diệt môi trường tu hành. Quỹ đạo di chuyển của Trái đất và các hành tinh làm cho thiên nhiên trên Trái đất có sự khắc nghiệt, đó là môi trường lý tưởng nhất cho các Tuệ linh sinh sống và tu luyện.

Kế hoạch xây dựng nhân loại làm môi trường tu hành được Ngài chia ra làm 4 kế hoạch, 4 kế hoạch này sẽ giúp cho các Tuệ linh luyện được cấu trúc mã sóng trí tuệ trong Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất:

1. Kế hoạch 1, vị Tuệ linh đầu tiên (Người Cha vĩ đại) sáng tạo và quan sát sự sống trên Trái đất

Ngài gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra hoạt động phun trào nham thạch, tạo thành núi cao và những vùng trũng khuyết, hố sâu. Ngài quan sát quá trình thay đổi của Trái đất để tạo ra nơi cao và nơi thấp.

Ngài gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương đến Trái đất để tạo ra các tầng năng lượng, các tầng năng lượng di chuyển tạo ra sự tương tác phản ứng tạo thành bầu khí quyển có oxy và các yếu tố khác. Từ đó hình thành các đám mây gây ra mưa, nước chảy từ nơi cao xuống nơi thấp, từ núi cao xuống nơi hố sâu, quá trình này tạo thành sông, hồ, biển. Ngài quan sát quá trình nước mưa rơi từng hạt xuống, tụ lại và chảy về nơi thấp hơn để kết tụ lại thành một chỉnh thể nước lớn. Ngài quan sát nước chảy từ trên cao xuống nơi thấp mà hình thành sông ngòi, ao hồ và biển lớn.

Ngài tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra thảm thực vật, cỏ, cây. Ngài quan sát thấy cỏ cây hút nước để nuôi dưỡng và trưởng thành. Ngài quan sát hạt mầm Ngài gieo ra nảy mầm, phát triển và to lớn, ra hoa, ra quả và hạt của quả lại rơi xuống đất và một cây con lại hình thành.

Ngài tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra các loại vi khuẩn, vi sinh vật, côn trùng để tương tác với nước, thảm thực vật, cỏ cây để tạo ra sự tương tác hỗ trợ cho sự sống phát triển, bước tiếp theo là hỗ trợ cho sự sống mới ở Trái đất.

Ngài tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra chim muông, Ngài quan sát những con chim ăn quả chín trên cây, thả hạt vương vãi ra xung quanh hoặc mang quả đi nơi khác ăn, rồi những hạt cây rơi xuống, nảy mầm và mọc thành cây, quá trình này tạo thành rừng cây. Ngài lại quan sát chim muông ăn những thức ăn và mang hạt đi gieo sự sống khắp nơi.

Ngài tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra muông thú, các loài thú dữ, các loài thú lành, loài bò sát. Ngài quan sát những muông thú giao phối giữa giống đực và giống cái để sinh con và phát triển loài. Ngài quan sát từng loài sống bầy đàn với nhau, chúng không tách rời mà sống xung quanh và bảo vệ nhau trước sự tấn công của các loài khác. Ngài quan sát các loài thú lớn đi săn, ăn thịt những loài thú bé và yếu hơn để sinh tồn. Ngài quan sát các loài thú lành ăn cỏ cây hoa lá để sinh tồn. Ngài quan sát trong bầy đàn muông thú sẽ có con làm thủ lĩnh và những con khác phải thuận theo mệnh lệnh của con thủ lĩnh.

Ngài gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương để tạo ra vô số loài sống dưới nước (các loài cá) và trên không (chim muông). Ngài quan sát chúng sống như những con thú trên mặt đất.

Ngài quan sát sự tác động, tương tác của Mặt trời, Mặt trăng mà tạo ra gió bão, sóng biển, thủy triều, mưa, sấm sét dẫn đến trên Trái đất có khu vực thì mưa bão, có khu vực thì lạnh giá đóng băng, có khu vực nóng và hỏa hoạn.

Ngài quan sát thấy tất cả vạn vật từ cỏ cây, hoa lá, đến nước, muông thú đều sinh ra và chết. Nước thì bốc hơi mà cạn kiệt, rồi hơi nước kết tụ thành mây mà gây mưa. Muông thú không ăn thịt nhau thì do già mà hết vòng sinh tử. Cỏ cây không bị muông thú ăn thì cũng già khô mà chết. Vạn vật không tự hoại diệt hay ăn nhau mà chết thì sự khắc nghiệt của thiên nhiên cũng làm cho vạn vật hoại diệt.

Quá trình gieo duyên tạo ra sự sống phải trải qua thời gian dài để hoàn thiện môi trường sống khắc nghiệt, lý tưởng, để cho các Tuệ linh xuống sinh sống và tu hành. Trong quá trình gieo duyên tạo ra sự sống, Ngài đã quan sát và thấy bản chất quy luật tự nhiên của vạn vật như sau: Đó là sự kết tụ của tính âm, là sự tỏa ra của tính dương, là sự cân bằng giữa thừa và thiếu, là sự cân bằng của âm và dương, là sự sinh, sự tồn tại, sự hoại diệt, sự lan tỏa, sự đoàn kết, sự phát triển duy trì loài, sự gieo duyên, sự xây dựng phát triển, sự phá hủy, sự thống lĩnh, sự tuân theo, sự gieo nhân và gặt quả, sự khổ và khổ đau. Quá trình quan sát sự sống và vận hành của vạn vật đã giúp cho Ngài thiết lập giáo luật công bằng dựa trên cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng, đó là luật Nhân quả. Luật Nhân quả để cho vạn vật và các Tuệ linh sinh sống tại Trái đất phải tuân theo để đảm bảo quá trình tu luyện cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng được thành công.

2. Kế hoạch 2, vị Tuệ linh đầu tiên đưa các Tuệ linh xuống Trái đất và nhân loại được hình thành

Sau khi Ngài đã tạo dựng được môi trường sống tại Trái đất đạt được điều kiện lý tưởng nhất, đó là sự khắc nghiệt về điều kiện sống, về sự sinh diệt, về khổ đau mà vẫn đảm bảo được điều kiện duy trì sự sống và cân bằng, Ngài tiếp tục thực hiện kế hoạch thứ 2 để xây dựng loài người và nhân loại:

Ngài gieo duyên bằng vô số các phôi năng lượng âm dương để tạo ra sự sàng lọc các loài thú nguy hiểm đến sự tồn tại và sinh sống của các Tuệ linh khi xuống nhân gian. Đó là các thời kỳ núi lửa phun trào, thời kỳ băng hà đã làm cho nhiều loài động vật nguy hiểm to lớn bị hoại diệt và tuyệt chủng, chỉ còn lại những loài động vật đủ tương tác, giúp cho các Tuệ linh tránh bị hoại diệt và vẫn đảm bảo các điều kiện tu hành.

Vị Tuệ linh đầu tiên tập kết đại hội thống nhất phương pháp tu học cho dạng sống Tuệ linh. Đại hội tập kết diễn ra như sau: Trong cuộc triệu tập Hội đồng của chư vị Tuệ linh tại cõi trời nhiệm màu nhất Vũ trụ, vị Tuệ linh đầu tiên trầm ngâm nhìn vào một đĩa thức ăn trắng trên bàn. Trong suy nghĩ lúc đó của vị Tuệ linh đầu tiên và Hội đồng Tuệ linh đều nghĩ là làm sao việc đưa các Tuệ linh xuống làm con người phải đạt

 

được thành tựu là tìm ra được phương thuốc cứu lại các Tuệ linh và Vũ trụ. Sự suy tư mang theo tâm trạng trầm ngâm khi nhìn vào đĩa thức ăn trắng trên bàn (tất nhiên thức ăn đó là do năng lượng tạo ra). Suy tư một lúc lâu, vị Tuệ linh đầu tiên liền nói với một Tuệ linh khác: “Hãy mang những con rắn độc ra đây”. Sau đó có một Tuệ linh mang ra những con rắn độc, có nhiều con nhỏ và một con to. Vị Tuệ linh đầu tiên lấy những con rắn nhỏ trộn vào đĩa thức ăn đó, tiếp đến thả hai con rắn, trong đó có một con to xuống nền đất. Hai con rắn đó trườn vào những bụi cây xung quanh đó. Vị Tuệ linh đầu tiên nhìn vào đĩa thức ăn đã trộn với rắn độc mà nói: “Để cứu được các Tuệ linh và Vũ trụ, chỉ có thể lấy độc trộn vào chân tâm (thức ăn trắng) mới tìm ra phương thuốc cứu lại Tuệ linh và Vũ trụ”. Vị Tuệ linh đầu tiên tiếp tục nói rằng: “Ngoài những độc tố lẫn trong chính chân tâm, ác tâm xen kẽ thiện tâm thì cần phải có thế lực ác tâm bên ngoài tác động vào; Môi trường tu hành nơi nhân gian sẽ như vậy”. “Để tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, dạng sống Tuệ linh phải thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian”. Đó là câu nói của vị Tuệ linh đầu tiên.

Như vậy, tại đại hội tập kết Tuệ linh về phương pháp tu học ở nhân gian, vị Tuệ linh đầu tiên đã quán triệt phương pháp tu học thông qua 3 hình ảnh về những con rắn độc. Cụ thể như sau:

  • Những con rắn độc nhỏ được trộn vào đĩa thức ăn trắng là những độc tâm của mỗi Tuệ linh. Hình ảnh đó tượng trưng các độc tâm đang bị ẩn giấu trong mỗi Tuệ linh và chưa được bộc phát ra.
  • Một con rắn nhỏ bên ngoài được thả ra là tượng trưng cho độc tâm có trong vạn vật, trong tất cả các cấu trúc vật chất. Độc tâm đó cũng đang bị ẩn giấu.
  • Con rắn to được thả ra tượng trưng cho năng lượng hoại diệt. Đó là độc tâm to nhất đối với tất cả các nhóm vật chất trong Vũ trụ và cả dạng sống Tuệ linh.

Thông qua 3 hình ảnh về những con rắn độc: Tất cả các Tuệ linh sẽ phải tương tác với nhau trong tất cả các kịch bản trong các điều kiện môi trường sóng điện khác nhau để bộc phát hết độc tâm của chính mình, của vạn vật và của năng lượng hoại diệt. Khi bộc phát được hết độc tâm chính là quá trình Tuệ linh sẽ giải mã được thông tin toàn diện nhất về tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Sau khi giải mã được thông tin toàn diện, vị Tuệ linh đầu tiên sẽ nghiên cứu, tìm được được Đạo hợp nhất của Vũ trụ để cứu Vũ trụ và dạng sống Tuệ linh. Để bộc phát hết độc tâm cũng như tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, tất cả Tuệ linh sẽ phải thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian.

Như vậy, kết quả của đại hội thống nhất phương pháp tu học của dạng sống Tuệ linh ở nhân gian gồm có 2 điều:

  • Tuệ linh thông qua thân tướng con người phải tương tác với nhau trong tất cả các kịch bản, trong tất cả các môi trường sóng điện khác nhau để bộc phát hết độc tâm của mình, của vạn vật và của năng lượng hoại diệt.
  • Phải thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian mới tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Đạo hợp nhất chính là bộ lọc sản sinh năng lượng viên mãn để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng cứu Vũ trụ và dạng sống Tuệ linh.

Sau đại hội tập kết thống nhất phương pháp tu học ở nhân gian, những Tuệ linh đầu tiên đã phát nguyện tiên phong đi xây dựng nhân loại.

Vị Tuệ linh đầu tiên đã dùng đến sự nhiệm màu về hào quang của các tầng năng lượng mà đưa các Tuệ linh xuống Trái đất, biến họ thành những con người có da, có thịt, có xương, có đầy đủ và hoàn chỉnh. Đây là điều đặc biệt duy nhất, chỉ có thế hệ đầu tiên của các Tuệ linh xuống Trái đất tu hành thì mới được chuyển hóa thành thân tướng. Để sự chuyển hóa này được thành công thì các Tuệ linh phải dùng toàn bộ năng lượng trong chính các Tuệ linh và sự trợ giúp của vị Tuệ linh đầu tiên. Sau khi chuyển hóa thành con người xong thì các Tuệ linh không còn các pháp nhiệm màu, không thể bay hay di chuyển trong Vũ trụ được nữa, mà phải sống như những muông thú đã được tạo trước đó, phải đi, phải leo trèo, bơi lội. Các Tuệ linh hóa thân thành con người được bắt đầu tại các cuộc tập kết ở Trái đất. Vậy Tuệ linh làm thế nào để hóa thành con người?

  • Các Tuệ linh được tuyển chọn sẽ đều tới Trái đất trong ngày hội chuyển sinh này. Họ vận hành, di chuyển các hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản đơn của năm nhóm hạt năng lượng kết tụ vào cấu trúc Tuệ linh của họ. Những nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ khác nhau được cấu tạo và mã hóa thành những tế bào chức năng khác nhau trong cơ thể con người. Cơ thể con người đã được hợp nhất bởi cấu trúc năng lượng siêu phức tạp của Tuệ linh và cấu trúc năng lượng giản đơn trong Vũ trụ hợp lại. Để cấu tạo thành một con người hoàn chỉnh thì cần vô số năm nhóm hạt năng lượng tận cùng giản đơn kết tụ lại. Đây là lần duy nhất dùng phương pháp này. Sau lần tập kết nhân loại đó, các Tuệ linh luân hồi làm con người sẽ tuân thủ thông qua cơ chế sinh sản của con người.

 

  • Các muông thú từ trước và sau khi xuất hiện con người đều được hình thành như con người cho từng giống loài. Tuy nhiên, muông thú thay vì Tuệ linh an trụ sẽ là linh hồn (cấu trúc năng lượng phức tạp) an trụ để hợp nhất với các năng lượng giản đơn cấu tạo thành. Sau đó, chúng cũng sẽ tuân thủ sinh sản giống con người để phát triển giống loài đó.
  • Sau này, khi linh hồn các con thú đã phát triển đạt được khả năng làm người bởi quá trình giải mã và mã hóa thông tin, họ sẽ được hóa thân làm con người thông qua quá trình luân hồi và sinh sản.

Cuộc tập kết lịch sử khởi đầu cho sự hình thành loài người tại nhiều nơi trên Trái đất như ven sông, ven biển, đồng bằng, trên núi, trong rừng, những nơi đó có vô số các điểm tập kết lịch sử. Tại các điểm tập kết lịch sử đó, vị Tuệ linh đầu tiên đã dùng quyền năng của mình để triệu tập tất cả muông thú về nghe Ngài truyền dạy về luật Nhân quả mà tất cả muông thú cùng với các Tuệ linh sống tại Trái đất phải tuân theo. Tại mỗi điểm tập kết sẽ có các Tuệ linh được hóa thành từng cặp vợ chồng với hai con nhỏ, có một con gái và một con trai. Mỗi điểm tập kết sẽ có hai đến nhiều hộ gia đình và muông thú đến nghe Ngài truyền dạy. Đây là cơ sở để loài người hình thành các bộ lạc, bộ tộc và ngày nay là quốc gia.

Ngài truyền dạy tại các điểm tập kết lịch sử, Ngài nói với các cặp gia đình là: “Ta đưa các ngươi xuống đây bằng chân tâm thì về cũng phải bằng chân tâm”. Ngài nói với các cặp bố mẹ: “Ta giao sứ mệnh cho các ngươi phải gả con cái cho nhau để xây dựng nhân loại”. Ngài nói với các cặp gia đình: “Các ngươi sẽ phải trải qua nhiều kiếp, trải qua hết các

khổ đau và kiếp nạn; lấy kinh nghiệm trải qua đó để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, khi chưa cải tạo được thì chưa được trở về”. Ngài nói với các hộ gia đình và muông thú: “Ta giao cho các ngươi nhiệm vụ thuần hóa muông thú để chúng cũng làm người và cùng xây dựng nhân loại”. Ngài nói với tất cả các hộ gia đình và muông thú: “Ta cho các ngươi biết, để nhanh cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng thì các ngươi hãy tìm kiếm Chân lý Vạn vật và chuyển hóa giác ngộ trong khổ đau và kiếp nạn”.

Trong các cuộc tập kết lịch sử này, Người Cha vĩ đại đã sắp đặt và gợi ý về luật Nhân quả. Luật Nhân quả chính là Chân lý Vạn vật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, mà tất cả các dạng sống dưới nhân gian sẽ phải thông qua khổ đau kiếp nạn để tìm và thấu hiểu. Không những Ngài gợi ý việc thông qua khổ đau kiếp nạn để tìm được Chân lý Vạn vật mà còn gợi lý luôn là phải tìm ra Chân lý Giác ngộ để giải thoát hết các khổ đau đó thì mới luyện được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh của Tuệ linh. Luật Nhân quả là luật công bằng đã được Ngài chuyển hóa từ Chân lý Vạn vật sau quá trình quan sát sự vận hành của vạn vật, Vũ trụ và xây dựng nó hoàn chỉnh nhằm tạo ra môi trường tu hành cho Tuệ linh khắp Vũ trụ tại Trái đất này.

Như vậy, Ngài cũng cần giải mã, thấu hiểu triệt để về tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là năng lượng hoại diệt và bản chất của các Tuệ linh. Thấu hiểu được tất cả bản chất của vạn vật chính là thấu hiểu Chân lý Vạn vật, tìm ra được cơ chế chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng chính là Chân lý Giác ngộ. Để dẫn dắt dạng sống Tuệ linh làm được điều đó, Ngài cùng tu hành với họ trong nhiều kiếp ở nhân gian, đó là những kiếp quan trọng cho việc dẫn dắt cũng như chuyển hóa Trụ linh.

3. Kế hoạch 3, vị Tuệ linh đầu tiên gia tăng sự phát triển và phức tạp môi trường tu hành

Ngài tiếp tục đưa các Tuệ linh xuống Trái đất để gia tăng dân số cho dạng sống con người. Sự đặc biệt của sự chuyển hóa từ Tuệ linh thành con người chỉ được thực hiện ở lần đầu tiên khi đưa các Tuệ linh xuống. Bắt đầu từ lần thứ hai cho đến ngày nay và về sau sẽ phải tuân thủ theo luật luân hồi. Luật luân hồi thể hiện ở chỗ: khi các cặp vợ chồng giao phối, tinh trùng mang sóng điện dương của người nam và trứng mang sóng điện âm của người nữ hợp lại thành phôi thai; phôi thai phát triển trong bụng người nữ đến khi sinh ra thì các Tuệ linh mới thiết nhập vào em bé và cất tiếng khóc chào đời, đó chính là đánh dấu mốc Tuệ linh đã thiết nhập vào; khi Tuệ linh thiết nhập vào em bé sẽ quên đi hết quá khứ, trí tuệ của Tuệ linh, quên đi mình là ai, mình phải làm gì và chết sẽ đi về đâu cũng không được biết. Ở những thế hệ đầu tiên thì con người vẫn được mở nhãn thần nên vẫn nhìn được về với các Tuệ linh, biết mình từ đâu đến, đến đây để làm gì. Do đó con người thời đó sau mỗi lần thu hoạch mùa màng đã biết dâng tế với các Tuệ linh và Ngài vì Ngài đã giúp đỡ họ phát triển nhân loại. Mỗi một em bé được sinh ra thì lại có một Tuệ linh được xuống luân hồi hoặc Linh hồn muông thú đã được thuần hóa đầu thai vào để tu hành. Ngày nay để khai mở được nhãn thần thì con người phải tu tập mới nhìn được các Ngài và tìm hiểu được tổ tiên của loài người là ai, do đó hiểu được tổ tiên của loài người là các Tuệ linh từ dạng sống Tuệ linh hóa thân xuống chứ không phải là muông thú tiến hóa thành, thấu hiểu là do nguyện lực để xuống đây tu luyện chứ không phải là bị đọa xuống đây.

Tại cõi trời của dạng sống Tuệ linh, sau khi các Tuệ linh hóa thân xuống nhân gian tu hành, thì các hội đồng nghiên cứu, các hội đồng tu luyện được gia tăng về số lượng. Sự hình thành này nhằm nghiên cứu các phương pháp, sáng chế ra các công cụ để giúp cho con người biết cách sản xuất nông nghiệp, biết cách làm nhà để ở, biết cách đoàn kết để tổ chức thành hình thái bộ tộc, bộ lạc nhằm bảo vệ nhau trước những bộ tộc, bộ lạc khác. Tại các hội đồng này, khi nghiên cứu xong, các Tuệ linh sẽ phải phát nguyện với Ngài để luân hồi xuống nhân gian và khi lớn lên sẽ có trí tuệ hoàn thành phát minh đó để áp dụng cho con người cải tạo cuộc sống dưới nhân gian. Các hội đồng này tiếp tục nghiên cứu các phương pháp, kỹ thuật thu phục muông thú, thuần hóa muông thú, thâm canh sản xuất, phát triển nền nông nghiệp, phát triển hình thái quốc gia, phát minh ra các công trình phát triển nền công nghiệp, y học, lý số, toán học, hóa học, du hành không gian, hàng không, công nghệ…, mục đích là giúp dạng sống nhân loại ở Trái đất ngày càng phát triển và làm cho mức độ tu hành không ngừng được nâng cao.

Vị Tuệ linh đầu tiên đã tạo ra cuộc sống ở Trái đất ngày càng phát triển, khoa học kỹ thuật không ngừng tìm hiểu sự sống ngoài Trái đất. Hình thái cuộc sống từ bộ tộc, bộ lạc đã chuyển thành quốc gia và hướng đến sự thống nhất của toàn Thế giới như việc hình thành các tổ chức liên minh đoàn kết của nhiều quốc gia và Thế giới. Mức độ phức tạp nhiều giai đoạn được đẩy mạnh thành các cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc, bộ lạc, giữa các dân tộc với nhau và toàn Thế giới với nhau. Liệu đây có phải là kế hoạch của Ngài không?

Đây không phải, đây là bản chất độc Tâm của các Tuệ linh đã bộc phát và mất kiểm soát. Vị Tuệ linh đầu tiên thấu hiểu căn nguyên vì sao độc Tâm của họ bộc phát và mất kiểm soát nên Ngài dự liệu được những việc làm của họ nơi Trái đất, từ đó Ngài sẽ có những kế hoạch cân bằng và cứu lại môi trường tu hành không bị hoại diệt. Những con người nghiên cứu, tu luyện thần thông, truy tìm giải thoát khổ đau, tu luyện về tâm linh đã tiếp dẫn đến với các Tuệ linh, và cuộc sống dưới Trái đất đã hình thành rất nhiều môn phái, trường phái, dòng đạo khác nhau, làm cho sự mong cầu về sự giải thoát, tìm ra con đường giải thoát hơn bao giờ hết. Các dòng đạo, tôn giáo, môn phái, trường phái, hình tướng đạo đã góp phần làm cho mức độ tu luyện dưới nhân gian trở nên căng thẳng và phức tạp vô cùng. Con người đã không biết đâu là đúng đâu là sai, đâu là con đường họ cần đi theo. Đặc biệt đến nay, con người không biết sự thật về tổ tiên loài người, mình là ai, ai là mình, mình phải làm gì ở dưới nhân gian. Chính vì thế con người ngày càng trở nên tha hóa trong cuộc sống, sự hưởng lạc, mưu hại, giết hại nhau không ngừng, đạo đức xã hội bị biến đổi đi xuống trầm trọng, các giá trị nhân văn được thay thế bằng giá trị của mê tín dị đoan. Điều này lại đẩy đến cao trào của sự hoại diệt môi trường tu hành của nhân loại mà vị Tuệ linh đầu tiên đã tạo ra. Sau mỗi lần như vậy, dưới nhân gian lại xuất hiện các bậc giác ngộ để dẫn dắt và cứu rỗi cho cả nhân loại.

4.Kế hoạch 4, sự dẫn dắt và tìm ra hai Chân lý cải tạo Trụ linh

Cuộc sống ở nhân gian ngày càng phức tạp và phát triển, chiến tranh liên miên giữa các bộ tộc, giữa các quốc gia đã đẩy con người đến tận cùng của khổ đau, tận cùng của sân hận, tận cùng của toan tính, tận cùng của sự hoại diệt. Con người không cần biết và quan tâm về cội nguồn của loài người, mình là ai, mình phải làm gì ở cõi trần nhân gian này. Vì thế con người chỉ mải mê kiếm tìm sự hưởng lạc, trụy lạc, mưu mô trục lợi về mình. Các Tuệ linh đã luân hồi xuống Trái đất này vô số, cứ đi xuống mà chưa tìm ra được hai Chân lý để cải tạo Trụ linh nên chưa thể được về. Cứ thế, dân số ở Trái đất này không ngừng được gia tăng do nhiều muông thú sau khi được thuần hóa thành thú lành đã được luân hồi đầu thai thành người để sống cuộc sống kiếp người với những con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh. Họ sống hỗn độn với nhau và chính hóa thân của các Tuệ linh không thể nhận biết, họ mưu hại, giết hại, lừa hại nhau, con người giết hại muông thú, linh hồn các con thú dữ báo thù giết hại lại con người, con người giết hại lẫn nhau. Tất cả tạo ra vô số khổ đau dưới nhân gian, vô số kiếp nạn trong nhân gian, đó cũng là cơ hội cho những sứ giả của vị Tuệ linh đầu tiên, cho những hóa thân của Tuệ linh thôi thúc việc đi tìm ra Chân lý giải thoát khỏi khổ đau.

Vị Tuệ linh đầu tiên đã gieo duyên, trợ nhân duyên cho vô số các Tuệ linh, chân tu ở dưới nhân gian, giúp họ được thôi thúc từ tâm để tìm tòi, nghiên cứu và tìm ra Chân lý Vạn vật và Chân lý giải thoát. Trong lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự hình thành vô số tín ngưỡng thờ các vị thần, vị thánh, hình tướng các đạo phái ra đời để giúp cho con người xây dựng được đức tin và giá trị đạo đức. Đó là đức tin của sự tin theo, phụng sự, tu theo để được giải thoát khỏi khổ đau nơi nhân gian. Nhưng cuối cùng tất cả các tín ngưỡng đó vẫn chưa dẫn dắt được con người đến với sự hiểu biết về tổ tiên của loài người. Con người vì u mê, vì tham lam, sân hận mà tạo vô số nghiệp lực và rồi để nghiệp lực đã tạo thành tầng năng lượng khí xấu bám chặt vào Tuệ linh trong các kiếp kế tiếp. Điều này đã làm cho loài người ngày càng mê lầm, họ mải mê tìm sự giải thoát khỏi cuộc sống này bằng lễ nghi, nghi thức cúng cầu đến các vị thần để được giải thoát. Có quá nhiều tín ngưỡng và hình tướng đạo đã dẫn dụ chúng sinh đến với các nghi lễ để cầu xin với các đấng, các thần, các Thánh thần nhằm giúp họ cầu được công danh, địa vị, tiền tài, giúp họ vãng sinh về cõi trời của các vị thần vị thánh đó. Như vậy, việc hình thành các tín ngưỡng, các hình tướng đạo đã giúp cho chúng sinh tìm tòi để nhận thấy Chân lý Vạn vật và đi tìm sự giải thoát là điều rất tốt. Nhưng nó chỉ tốt bởi hình tướng là có xuất hiện nhóm, tổ chức nghiên cứu. Tuy nhiên nó lại vô tình đẩy chúng sinh đi vào con đường lầm than, mê lầm bởi việc đi ngược với sứ mệnh là sống trong khổ đau kiếp nạn để tìm ra Chân lý Vạn vật và Giác ngộ nhằm cải tạo Trụ linh chứ không phải cầu nguyện, niệm danh hiệu để được sinh về các cõi trời của các vị Thần, vị Chúa hay vị Phật nào cả. Như vậy, Ngài gieo duyên vô số và hình thành vô số tín ngưỡng, môn phái, hình tướng đạo nhưng cuối cùng cũng không tìm ra con đường cải tạo Trụ linh mà lại còn đi vào mê lầm của những nghiệp lực và lừa lọc hại nhau.

Ngài vẫn không ngừng nghỉ việc gieo duyên trợ giúp những hóa thân của các Tuệ linh đang mải miết tìm con đường giác ngộ để cải tạo Trụ linh và các cơ chế cứu lại các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ. Đó là những con người được thôi thúc từ trong Tâm họ để họ xa rời với lợi ích, ích kỷ cá nhân, xa rời dục vọng, với phù du giả tướng, để trải qua, thấm nhuần các khổ đau, các kiếp nạn. Điều đó đã giúp họ có kinh nghiệm vượt qua khổ đau kiếp nạn, kinh nghiệm này được tích lũy trong nhiều kiếp, khi nó lớn mạnh thì những con người đó đã trở thành những bậc giác ngộ của nhân loại. Trong lịch sử nhân loại có thể kể đến những bậc giác ngộ, đặc biệt đầu tiên là Đức Phật Thích Ca đã tìm ra Chân lý Vạn vật và chuyển hóa giác ngộ được thành Chân lý Giác ngộ để đạo Phật được hình thành và dẫn dắt chúng sinh tu đạo giải thoát. Tiếp sau đó là giáo chủ của các tôn giáo lớn. Họ là những lãnh tụ tinh thần dưới nhân gian, họ đã trải qua nhiều đời nhiều kiếp tu hành trong khổ đau, lấy kinh nghiệm khổ đau để giác ngộ và cải tạo được Trụ linh thành những bộ lọc năng lượng để trở về và duy trì sự sống ở khắp Vũ trụ.

Vị Tuệ linh đầu tiên vẫn đang gieo vô số duyên để 4 kế hoạch tiếp tục diễn ra, tiếp tục tạo ra môi trường tu hành khắc nghiệt hơn, tiếp tục có các công trình nghiên cứu từ các hội đồng của dạng sống Tuệ linh được đưa xuống Trái đất để xây dựng nhân loại. Ngài tiếp tục gieo vô số duyên để giúp cho hóa thân của các Tuệ linh tìm ra con đường cải tạo Trụ linh viên mãn nhất, giúp cho tất cả các Tuệ linh đạt được sự cải tạo đó để trở về thực hiện kế hoạch 2 là đi duy trì, bảo vệ, phát triển sự sống trong và ngoài Vũ trụ.

Như vậy, môi trường tu hành của dạng sống Tuệ linh ở nhân gian đã hội tụ đủ sự tương tác của tất cả 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ (giản đơn, phức tạp và siêu vật chất) với nhóm năng lượng hoại diệt. Đặc biệt khi dạng sống Tuệ linh bị trói buộc trong thân xác con người, trong tương tác với tất cả các kịch bản của bốn hình tướng Đạo, đã tạo ra tột cùng của khổ đau kiếp nạn, tột cùng của an vui hạnh phúc. Tất cả sự tương tác trong bốn hình tướng Đạo với tất cả các kịch bản tương tác xảy ra đã giúp cho vị Tuệ linh đầu tiên thấu hiểu tận cùng về bản chất của Tuệ linh, bản chất của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ.

Sau hành trình vị Tuệ linh đầu tiên cùng vô số Tuệ linh tu hành ở nhân gian, Ngài đã giải mã, thấu hiểu tận cùng bản chất của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, tiếp đó là Ngài đã tìm được cơ chế chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Vào đúng thời khắc cuối cùng của sự hoại diệt toàn bộ Vũ trụ bởi năng lượng hoại diệt đồng hóa, việc Ngài tìm ra và chuyển hóa thành công Trụ linh thành bộ lọc năng lượng để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng được coi là ánh sáng nơi cuối con đường. Đó là ánh sáng trí tuệ của hai Chân lý để dẫn dắt Tuệ linh và con người cùng nhau thực hành chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, đó là đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ chính là việc các Tuệ linh cứu được mình và trở nên bất tử, đồng thời giúp vạn vật trong và ngoài Vũ trụ phát triển bền vững.

***************

Rate this post

Bài viết liên quan