PHẦN 3 PHƯƠNG PHÁP THIỀN ĐỊNH THEO HAI CHÂN LÝ

I.  Giới thiệu về các phương pháp thiền định theo hai Chân lý

Thiền định có hai loại, đó là thiền tĩnh và thiền động:

  • Thiền tĩnh là thân tướng con người tĩnh lặng để ý nghĩ của trí tuệ tập trung liên kết tới Trụ linh trong Tâm, để từ Trụ linh, sóng điện sẽ được truyền tải, liên kết tới các cấu trúc năng lượng trong Vũ trụ.
  • Thiền động là thân tướng vẫn vận động, đó là vẫn đi đứng, vẫn làm việc, vẫn hoạt động; trí tuệ thông qua ý nghĩ để liên kết tới Trụ linh, từ Trụ linh sẽ truyền sóng điện để liên kết tới hết thảy vạn vật, các cấu trúc năng lượng trong Vũ trụ.

Thiền theo hai Chân lý là:

  • Người hành thiền sẽ phải thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ. Để thấu hiểu hai Chân lý thì phải thấu hiểu cơ chế vận hành của hai Chân lý là phân tách liên kết dây.
  • Phải thấu hiểu bản chất hạt năng lượng tận cùng, cơ chế Quay tròn, Tam hợp, các cấu trúc năng lượng, mã hóa thông tin, cơ chế chuyển sinh. Phải phân biệt được các loại năng lượng tiêu cực, các cấu trúc năng lượng tiêu cực, các năng lượng và các cấu trúc năng lượng tích cực. Phải thấu hiểu bản chất của hạt năng lượng, bản chất của liên kết tạo thành cấu trúc năng lượng chứ không phải là chỉ nhìn vào hình tướng. Khi đã thấu hiểu bản chất thì việc thấy Tướng sẽ nhận diện được sự thật của các Tướng đó.
  • Phải thấu hiểu cội nguồn Vũ trụ, cội nguồn nhân loại, kế hoạch tu hành nơi nhân gian, thấu hiểu Bát Không Hoàn

Đạo, thấu hiểu Quy luật Nhân quả, thấu hiểu quy trình Chuyển sinh.

  • Để thiền đạt được hiệu quả cao nhất, an toàn nhất, thành tựu nhất thì cần phải có trí tuệ thấu hiểu tận cùng hai Chân lý, đó là cần phải thấu hiểu toàn bộ hệ thống tri thức của hai Chân lý. Khi thấu hiểu thì sẽ có trí tuệ để thực hành thiền định theo hai Chân lý.

Thiền theo hai Chân lý với điều kiện là phải thấu hiểu tận cùng toàn bộ hệ thống tri thức của hai Chân lý, khi thấu hiểu mới nên thực hành thiền định. Nếu không có trí tuệ thấu hiểu về vạn vật, Vũ trụ và con đường chuyển sinh bền vững theo Chân lý Giác ngộ, con người sẽ dễ dàng thiền sai và bị ảo ảnh trong thiền chi phối, sẽ dễ bị Chư vị Tuệ linh thử thách, sẽ dễ bị cấu trúc năng lượng âm làm cho ảo thanh và ảo giác. Do đó, chỉ khi có trí tuệ của hai Chân lý mới tạo được liên kết vững chắc và mới đạt được các thành tựu trong thiền định. Chính vì điều này mà Tôi đã đặt phần mục thiền định ở cuối cùng của toàn bộ giáo lý.

II.   Bản chất của thiền định

Thiền định là việc dùng trí tuệ trong não bộ thông qua ý nghĩ để dẫn dắt, truyền tải sóng điện từ não bộ liên kết tới cấu trúc Trụ linh trong Tâm (Tuệ linh, Linh hồn), từ Trụ linh trong Tâm, sóng điện mã sóng trí tuệ sẽ truyền tải, đẩy đi và liên kết với các cấu trúc năng lượng, cấu trúc vật chất, cấu trúc hết thảy Tướng trong không gian Vũ trụ.

Khi sóng điện từ Trụ linh đã di chuyển trong cấu trúc nền của không gian Vũ trụ để tới được các cấu trúc năng lượng, cấu trúc vật chất, cấu trúc Tướng trong Vũ trụ, những thông tin, những hình ảnh, những sóng điện năng lượng sẽ được Trụ linh hấp thụ về hoặc được truyền tải về Trụ linh.

Thiền với bản chất là bước nhảy, là di chuyển, là truyền tải sóng điện trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng tận cùng. Sóng điện trí tuệ sẽ thực hiện bước nhảy vượt không gian từ Trụ linh trong Tâm để tới một không gian khác trong Vũ trụ trong một ý nghĩ.

Thiền cũng là bước nhảy, là di chuyển, là truyền tải sóng điện thông tin trong hạt năng lượng tận cùng để vượt thời gian trở về quá khứ. Đó là thiền quán thấy quá khứ của Vũ trụ, của nhân loại, của tiền kiếp nhân sinh.

Thiền tuyệt đối không giúp cho con người đắc đạo hay giác ngộ, bởi Tâm chính là Tuệ linh, là dạng sống siêu việt nhất Vũ trụ; trước khi họ hóa thân làm con người, họ có trí tuệ siêu việt trong sự hiểu biết về sự thật, về không gian Vũ trụ; khi con người bị che đi trí tuệ của Tuệ linh trong thân tướng vật chất giản đơn là con người, con người thiền định và thấy được những điều mà con người tưởng là kỳ diệu, là thần thông, là pháp thuật, là nhiệm màu, là giác ngộ; tuy nhiên, những điều đó là điều mà các Tuệ linh đều biết. Do đó, thiền định chỉ cho trí tuệ con người biết được sự thật về thế giới quan Vũ trụ để con người biết về cội nguồn mà thực hành tu hành cải tạo Trụ linh.

Thiền định không đem lại sự giác ngộ giải thoát khổ đau, không giúp cho con người đắc đạo. Thiền định chỉ là thông qua bước nhảy của mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng tận cùng để giúp cho trí tuệ con người khám phá thế giới quan Vũ trụ và hấp thụ năng lượng tích cực cho việc cân bằng cũng như nâng cao sức khoẻ cho thân tướng.

III.  Ý nghĩa của thiền định theo hai Chân lý

Thiền định nói chung và thiền định theo hai Chân lý nói riêng có rất nhiều ý nghĩa. Trong thiền định có hai loại thiền là thiền động và thiền tĩnh, do đó ý nghĩa của thiền định sẽ phân chia ra làm hai loại:

–  Thiền động:

+ Thiền động sẽ cho trí tuệ con người thấu hiểu tận cùng về bản chất của vạn vật, sự việc, hiện tượng. Thông qua thiền động để quan sát sự vận động của vạn vật, sự việc, hiện tượng sẽ cho trí tuệ con người thấy được sự thật về cơ chế vận hành tất cả vật chất (vật chất giản đơn, vật chất phức tạp, siêu vật chất), đó là cơ chế phân tách, liên kết dây. Đây là cơ chế vận hành sự tồn tại của cội nguồn, sự sống, phát triển của từ hạt năng lượng tận cùng cho tới chỉnh thể toàn bộ Vũ trụ.

+ Thiền động thông qua cơ chế Phân tách và liên kết dây, trí tuệ con người sẽ thấu hiểu được quá khứ, hiện tại và tương lai của hết thảy các cấu trúc vật chất trong Vũ trụ.

–  Thiền tĩnh:

+ Thiền tĩnh sẽ giúp cho con người dùng sóng điện trí tuệ để vận hành mã sóng trí tuệ trong Trụ linh liên kết với năng lượng tích cực trong Vũ trụ, khi liên kết được sẽ hấp thụ, lấy năng lượng tích cực đó di chuyển tới thân tướng con người. Năng lượng tích cực trong Vũ trụ di chuyển vào cơ thể con người sẽ giúp cho cấu trúc sóng điện trong cơ thể được tuần hoàn, được lưu thông, chuyển hóa những năng lượng âm tích tụ trong cơ thể.

+ Thiền tĩnh để lấy năng lượng tích cực trong Vũ trụ về cơ thể sẽ giúp cho thân tướng con người được nâng cao sức đề kháng.

+ Thiền tĩnh thông qua việc lấy năng lượng tích cực về sẽ giúp cho cơ thể triệt tiêu được những căn bệnh trong cơ thể một cách kỳ diệu.

+ Thiền tĩnh giúp cho trí tuệ và trạng thái tâm trong cơ thể được cân bằng, được buông xả những lo âu, lo toan, những áp lực để an lạc, để thanh tịnh sau những ngày vất vả bởi lo toan cuộc sống.

+ Thiền tĩnh sẽ giúp cho con người cân bằng được cảm xúc, cân bằng được năng lượng trong Tâm. Điều này giúp cho những con người mắc bệnh về Tâm như lo âu, trầm cảm, hoang tưởng, ảo thanh, ảo giác, tâm thần được hỗ trợ cân bằng khi kết hợp cùng trị liệu siêu tâm lý của hai Chân lý.

+ Thiền tĩnh sẽ giúp cho trí tuệ con người khám phá được các cõi trời, khám phá được cõi trời Địa phủ, khám phá được dạng sống siêu vật chất là Tuệ linh; đặc biệt là sẽ thiền định để giao tiếp, trò chuyện với các dạng sống khác bên ngoài Trái đất.

+ Thiền định sẽ khám phá được dạng sống siêu vật chất như Chúa trời, Phật, Thần thánh, Tiên, ma qủy là vì trong con người cũng có 1 cấu trúc siêu vật chất an trụ bên trong. Tuệ linh an trụ trong thân tướng con người, do đó, con người thông qua Tuệ linh đang an trụ bên trong cơ thể để thấy được các cấu trúc, dạng sống siêu vật chất trong Vũ trụ. Chính vì vậy, con người sẽ có niềm tin vào Địa ngục, Địa phủ, Thần tiên, ma quỷ, Thần thánh, Phật, Chúa.

+ Thiền định sẽ giúp cho những con người tu tập tâm linh có thể chứng ngộ được các huyệt mạch năng lượng màu vàng óng ánh ở Trái đất. Những huyệt mạch đó gọi là long huyệt mạch trong bộ môn Địa lý. Cơ chế liên kết dây từ lõi của Vũ trụ sẽ tỏa ra vô số các cột siêu năng lượng màu vàng óng ánh tới các hành tinh để dạng sống Tuệ linh vận hành sự vận động của tất cả các cấu trúc vật chất trong Vũ trụ.

+ Ngoài ra, thiền định theo hai Chân lý sẽ giúp cho con người thấy và thấu được những điều kỳ diệu đối với con người. Đó là thấu hiểu về bản chất việc thờ cúng, bản chất long huyệt mạch, bản chất năng lượng tương tác với đời sống con người, bản chất của bùa chú, bản chất của trấn yểm, bản chất của cúng bái, thấy mạch nước ngầm, thấy linh hồn người chết, thấy ma quỷ, thấy linh hồn những con thú dữ…

IV.   Thời gian và địa điểm tốt cho việc thiền định

Thời gian không tốt cho thiền định:

  • Từ 11h tới 13h trưa là giờ đa dương trong một ngày. Đây là thời điểm năng lượng dương từ Mặt trời tác động vào Trái đất rất nhiều. Thời điểm này là thời điểm cơ thể con người rất mệt mỏi, nếu thiền định trong tình trạng cơ thể mệt mỏi sẽ nguy hiểm trong việc kiểm soát sự tỉnh táo của trí tuệ. Khi trí tuệ không tỉnh táo sẽ dễ chìm vào ảo ảnh của các cấu trúc năng lượng âm trong khi thiền định.
  • Từ 23h đêm cho tới 5h sáng. Đây là thời điểm đa âm trong một ngày, tức là sóng điện âm của màn đêm sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt di chuyển nhiều vào Trái đất. Đêm lại là môi trường sóng âm đang vận hành thịnh vượng trong một ngày, thời điểm đêm lại là thời điểm cơ thể con người mệt mỏi cần được ngủ nghỉ. Với những yếu tố tiêu cực đó mà thực hành thiền định sẽ rất nguy hiểm, khi con người thiền định vào ban đêm sẽ khiến cho trí tuệ dễ bị mất kiểm soát bởi sự chi phối của năng lượng hoại diệt và của các cấu trúc năng lượng âm.

Thời gian thiền định tốt nhất trong ngày là những khung giờ ngoài hai khung giờ trên.

Địa điểm không tốt cho việc thiền định:

  • Không nên thiền định ở trên núi, trong rừng, bởi những nơi này có những linh hồn của muông thú đang tồn tại sau khi chúng chết. Những linh hồn đó có các cấu trúc năng lượng âm, những năng lượng âm đó sẽ xâm nhập vào cơ thể khi thiền định, điều này sẽ vô cùng nguy hiểm gây ra ảo ảnh, ảo giác và khiến cho cơ thể nhiễm năng lượng âm từ họ.
  • Không nên thiền định trong hang núi, trong động sâu, trong vực sâu, bởi những nơi này có sóng điện âm sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt di chuyển tới và di chuyển vào cơ thể gây phân rã cấu trúc Trụ linh.
  • Không nên thiền định ở ngoài công viên, ở cánh đồng, ở nghĩa trang, ở bệnh viện, ở những nơi giết mổ hay hiến tế, ở những nơi có người chết, những nơi là chiến trường, nhà tang lễ, nhà hỏa táng…, vì những nơi này sẽ có lượng năng lượng âm rất lớn. Khi thiền định, những năng lượng âm này sẽ xâm nhập vào cơ thể và gây ra vỡ các huyệt đạo cũng như làm cho việc thiền định bị ảo giác.
  • Không nên thiền định trong kim tự tháp hay thiền định bên trong mô hình kim tự tháp, bởi những nơi này sẽ hấp thụ sóng thu năng lượng hoại diệt về, khi thiền sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt di chuyển vào nhiều. Nếu mô hình kim tự tháp lại đặt trên điền thổ có năng lượng âm thì sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt vào rất nhiều, sẽ vô cùng nguy hiểm cho việc thiền định, cấu trúc Trụ linh sẽ phân rã nhanh và gây ra các chứng hoang tưởng, ảo thanh, ảo giác, ảo ảnh.
  • Không thiền định ở nơi có tu luyện pháp thuật, tu luyện âm binh, tu luyện bùa chú, những nơi hành nghề mê tín dị đoan. Những nơi này có rất nhiều âm, nếu thiền định sẽ rất nguy hiểm bởi năng lượng âm sẽ xâm nhập vào gây bệnh tật và sẽ thấy những ảo ảnh, ảo tưởng về Thần thánh, Phật, các Đấng tối cao.
  • Không thiền định ngoài trời, vì khi thiền định là các huyệt đạo đang mở, ngoài trời có gió, có nhiều năng lượng tiêu cực lẫn lộn nên dễ xâm nhập vào cơ thể.

Địa điểm thiền tốt nhất là thiền trong nhà, kín gió, đặc biệt ngôi nhà thiền định phải không có năng lượng âm. Để an toàn cho việc thiền định, người hành thiền cần phải thấu hiểu hệ thống lý luận trong giáo lý hai Chân lý; tiếp đến thực hành hóa giải, siêu độ cho những năng lượng âm an trụ tại điền thổ, hóa giải bùa chú và các trấn yểm để nơi thiền, nơi sinh sống có năng lượng tích cực. Khi đó, việc thiền ở nơi có năng lượng tích cực sẽ giúp cho người thiền chữa được bệnh cơ thể, nâng cao sức khoẻ và việc khám phá thế giới quan Vũ trụ được chân thật.

V.   Những lưu ý trước và trong quá trình hành thiền

Trước khi thiền định cần lưu ý:

  • Trước khi thực hiện hành thiền phải đọc vài lần toàn bộ hệ thống tri thức của hai Chân lý, để hiểu bản chất và sự thật của vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
  • Trước khi thực hiện hành thiền phải dùng bài Hóa độ để siêu độ và cân bằng năng lượng điền thổ nơi hành thiền, hóa giải bùa, những vật phẩm trấn yểm nếu có.
  • Ghi nhớ những năng lượng tiêu cực nguy hiểm cho thiền định, ghi nhớ các siêu hạt năng lượng tốt cho thiền định.
  • Không thiền định ở ngoài trời và những nơi có những năng lượng âm như đã đề cập. Chỉ nên thiền định trong ngôi nhà kín gió và ngôi nhà đã được siêu độ cho năng lượng âm rồi.
  • Không thiền định vào giờ trưa (từ 11h đến 13h) và từ 23h đêm tới 5h sáng.

Trong quá trình hành thiền cần lưu ý:

  • Khi đang hành thiền mà thấy đau mỏi vai gáy, đau người hay đau đầu, người rung lắc thì đó là dấu hiệu trong người bị nhiễm âm nặng, có thể trên điền thổ nơi sinh sống cũng có nhiều năng lượng âm. Khi thiền là các siêu năng lượng vào cơ thể rất nhiều, nên nếu cơ thể đang bị dư thừa âm sẽ cảm nhận được rõ sự giao tranh này. Khi đó, kết hợp vừa thiền vừa đọc bài Hóa độ bên dưới để quá trình giao tranh nhanh kết thúc.
  • Khi hành thiền mà thấy các năng lượng xấu như màu đỏ máu, màu đen, màu xám thì vừa thiền vừa đọc bài Hóa độ bên dưới để các siêu năng lượng sẽ trung hòa và chuyển hóa những năng lượng âm đó.
  • Khi hành thiền cân bằng năng lượng mà nhìn thấy các hình ảnh Chúa, Phật, Thánh thần thì không nên tin vội, vì đó có thể là do ảo ảnh hoặc ngã quỷ đóng giả để dẫn dụ người hành thiền đi sai đường. Khi đó, để biết những thứ đó là thật hay giả thì hãy dùng bài Hóa độ bên dưới để đọc và tay phải giơ lên hướng vào những hình ảnh đó. Nếu thật thì sẽ không bị tan biến, nếu là do tinh tà, ngã quỷ đóng giả thì sẽ bị tan biến.
  • Trong quá trình hành thiền, khi người hành thiền đạt được trạng thái cơ thể ấm áp, yêu đời, an vui, không đau mỏi cơ thể, không lạnh người, tức là đã cân bằng được năng lượng âm dương trong người.
  • Khi đang thiền không để có trẻ con bên cạnh, không để sự va đập của ai đó làm ảnh hưởng việc thiền định.
  • Tôi khuyến khích độc giả hành thiền khi có những người đã đạt được thành tựu trong thiền định hướng dẫn và giám sát khi thiền. Đây là phương pháp luận kỳ diệu nhất để con người thấu hiểu được vạn vật, Vũ trụ. Tuy nhiên, bên cạnh đó là vô vàn thử thách của các tầng năng lượng cũng như hiểm nguy khi thiền, nên độc giả cần cân nhắc trước khi tự hành thiền.

Bài Hóa độ khi hành thiền sử dụng để hóa giải, siêu độ cho những năng lượng âm tác động tới, những cấu trúc năng lượng âm đang xung quanh khi ta thiền, đó là:

  • Nghĩ tới Ngài A Di Di Đà Phật. Ngài A Di Di Đà chính là vị Tuệ linh đầu tiên có các danh xưng khác như: Thiên Chúa, Thượng Đế, Đấng Sáng Tạo. Ngài đã thành đạo viên mãn bởi hai Chân lý.
  • Đọc cả bài Hóa độ là: đọc 3 lần câu “Nam mô A Di Di Đà Phật”. Sau đó đọc 1 lần câu “Ta hóa độ cho Thân – Tâm – Trí chuyển sinh an lạc. Đạo”. Đọc nhiều lần bài Hóa độ này cho tới khi hết các hiện tượng đau mỏi vai gáy, đau đầu, không còn nhìn thấy năng lượng âm nữa.
  • Khi đọc bài Hóa độ thì phải nở nụ cười nhẹ nhàng và an vui, đó là chân tâm bởi trí tuệ thấu hiểu giáo lý nên bằng tâm thương cảm các cấu trúc năng lượng để độ họ được siêu thoát.

Có người đang thiền định, vô tình thấy Tuệ linh, Linh hồn mình tách ra khỏi cơ thể, hoặc khi du linh đến các cõi trời mà muốn trở về thân tướng khi gặp chướng ngại, hãy đọc câu “Tái tạo hoàn hồn. Đạo” là Tuệ linh, Linh hồn sẽ trở về và vào cơ thể.

Bài Hóa độ và bài xử lý khi Tuệ linh, Linh hồn tách ra cơ thể khi thiền là chìa khóa an toàn, là bảo bối trong thiền định. Do đó, cần phải nhớ kỹ để khi thiền sử dụng.

VI.   Phương pháp thiền định cơ bản

Phương pháp thiền cơ bản bao gồm thiền xả và thiền dưỡng. Đây là phương pháp cơ bản đầu tiên của thiền định theo hai Chân lý, là nền tảng để phát triển các khả năng thiền định ở các cảnh giới, các tầng thiền cao hơn. Đây cũng là phương pháp thiền cân bằng năng lượng và nâng cao sức khoẻ tổng hợp.

Trước khi thiền phải nhớ lại những kiến thức về năng lượng. Năng lượng xấu và không nên lấy đó là năng lượng màu đỏ máu, năng lượng màu đen, năng lượng màu xám. Những năng lượng cần phải lấy khi thiền là các siêu hạt năng lượng vàng óng ánh, xanh ngọc lưu ly, hạt bóng hỏa và hạt năng lượng Nhật Sư.

Những người không nên thiền định theo phương pháp thiền cơ bản là những người mắc bệnh Tâm như sau:

  • Những người hay bị lạnh người, hay bị đau mỏi vai gáy, hay đau đầu mà không rõ nguyên nhân.
  • Những người mắc chứng bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu.
  • Những người mắc bệnh đa nhân cách, hoang tưởng, ảo thanh, ảo giác, những người mắc bệnh tâm thần.
  • Những người hay bị vong âm nhập người, âm hành, căn hành.
  • Những người đã tu luyện các môn pháp tu, các tín ngưỡng, các tôn giáo khi thiền mà bị mất kiểm soát, tay múa may bắt ấn, đầu và người lắc lư. Những người này tuyệt đối không thiền theo pháp thiền cơ bản này.

Những người thiền định được theo phương pháp thiền cơ bản là những người không bị các chứng bệnh Tâm như trên.

Phương pháp thiền cơ bản của hai Chân lý gồm có hai giai đoạn, đó là thiền xả và thiền dưỡng:

Giai đoạn 1 – thiền xả:

Thiền xả là lấy những siêu năng lượng tốt trong Vũ trụ vào cơ thể để đẩy, thanh lọc những năng lượng âm dư thừa ra khỏi cơ thể. Do ăn uống, do bệnh tật, do lao động vất vả mà cơ thể bị dư thừa năng lượng âm, do đó cần thiền xả bỏ năng lượng âm ra ngoài cơ thể trước khi thực hành thiền dưỡng. Giai đoạn thiền xả chỉ nên thiền 15 đến 20 phút mỗi lần thiền. Giai đoạn thiền xả gồm có những bước thực hiện như sau:

  • Ngồi với tư thế thoải mái nhất, khi ngồi không quan trọng việc để chân ra sao, miễn là thoải mái cơ thể để thực hiện việc hành thiền thuận lợi nhất.

Thiền là gì-cách thiền đúng

 

Hình: Ảnh thiền xả

  • Hai tay để lên hai đầu gối, hướng hai lòng bàn tay xuống đất để tạo thành cơ chế xả năng lượng âm (năng lượng xấu) trong cơ thể chuyển hóa xuống đất. Bản chất của Trái đất là có lực hút nên việc xả âm phải thuận với bản chất đó để đạt hiệu quả trong thiền xả. Nhắm hai mắt.
  • Tập trung suy nghĩ ở trán, cạnh chân tóc. Điểm này chính là nơi kết tụ trạm phát sóng trí tuệ của con người đến vạn vật, Vũ trụ. Do đó phải tập trung suy nghĩ vào trán, chỗ chân tóc, để kích hoạt các mã sóng trí tuệ nhằm thiết lập liên kết với mã sóng trí tuệ trong Trụ linh và Vũ trụ.
  • Hãy truyền ý nghĩ từ não bộ tới Trụ linh trong Tâm, tức là truyền suy nghĩ tới bên trong cơ thể mình để sóng điện được liên kết từ não bộ tới Trụ linh của Tâm. Từ Trụ linh của Tâm, hãy truyền sóng điện tới Vũ trụ. Hãy nghĩ tới Vũ trụ với tinh cầu hình tròn khổng lồ bao gồm vô lượng dải thiên hà, trong lõi của Vũ trụ là không gian chứa đựng siêu năng lượng vàng óng ánh; bên ngoài Vũ trụ, bao trùm Vũ trụ là siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly; bên trong các hành tinh là các hạt năng lượng bóng hỏa đang được lưu giữ; những hạt năng lượng Nhật Sư có ở lõi và khắp không gian Vũ trụ. Việc nhớ được những nơi chứa đựng các siêu năng lượng chính là việc từ trí tuệ đã vận hành Trụ linh liên kết tới những siêu năng lượng đó rồi. Để làm được việc này thì phải đọc nhiều lần tri thức của hai Chân lý. Đó chính là thiền định theo hai Chân lý, bởi các siêu năng lượng được sản sinh bởi hai Chân lý.
  • Suy nghĩ có những dòng chảy lớn siêu năng lượng màu vàng óng ánh, siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly, hạt bóng hỏa, siêu hạt năng lượng Nhật Sư chảy vào trán. Hãy nghĩ có những dòng chảy đó và chảy rất mạnh vào trán. Việc nghĩ chính là dùng ý để dẫn năng lượng, tức là khi trí tuệ nghĩ, Tuệ linh sẽ thực hiện cơ chế liên kết và hấp thụ các siêu năng lượng về. Do đó, phải nghĩ liền mạch, không để bị đứt mạch bởi những tạp niệm khi hành thiền, phải tập trung không để đứt mạch suy nghĩ về các dòng năng lượng chảy vào trán.
  • Khi đó đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với chỗ chân tóc trên trán là một. Có nghĩa là hãy hình dung chỗ trán là một cái mũi thứ Cả 2 cái mũi cùng nhau hít năng lượng vào cơ thể.

+ Hít một hơi ở mũi thật nhẹ nhàng và dài thì cũng nghĩ là các siêu năng lượng cũng từ trán chảy vào cơ thể và lan tỏa khắp cơ thể.

+ Tiếp đó là khi thở bằng mũi cũng thở nhẹ và dài thì nghĩ năng lượng âm với màu đỏ máu, màu đen, màu xám (năng lượng xấu) chạy ra hai lòng bàn tay rồi thoát xuống đất.

+ Cứ như vậy, đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với ở trán chỗ chân tóc. Hít vào ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời nghĩ các siêu năng lượng sẽ từ chân tóc chỗ trán di chuyển vào và lan tỏa khắp cơ thể. Thở ra ở mũi thật dài và nhẹ, đồng nhất với ý nghĩ là các siêu năng lượng đang đẩy các năng lượng âm thoát ra khỏi hai lòng bàn tay rơi xuống đất.

Thật tập trung theo hơi hít và thở ở mũi để hấp thụ được những siêu năng lượng vào và xả những năng lượng âm ra khỏi hai bàn tay. Thiền xả trong vòng 15 đến 20 phút rồi chuyển sang bước thiền dưỡng cân bằng năng lượng âm dương trong cơ thể.

Giai đoạn 2 – thiền dưỡng:

Thiền dưỡng là giai đoạn kế tiếp của thiền xả. Thông qua giai đoạn thiền dưỡng để cân bằng năng lượng âm dương trong cơ thể, tức là những siêu năng lượng được hấp thụ vào cơ thể sẽ phải lan tỏa khắp cơ thể để nuôi dưỡng các tế bào, để trung hòa các năng lượng xấu, để nâng cao khả

năng đề kháng của các tế bào trong cơ thể.

Thiền dưỡng gồm có các bước sau:

  • Tư thế ngồi vẫn là thoải mái nhất. Nhắm hai mắt.

Thiền là gì-cách thiền đúng

 

Hình: Ảnh thiền dưỡng

  • Hai tay từ tư thế thiền xả chuyển sang tư thế bắt ấn lại để phong tỏa khí hỏa không thoát ra ngoài khi hành thiền.

Tư thế bắt ấn là hai tay đặt lên nhau, hai đầu ngón cái chạm vào nhau. Phong ấn như vậy để an toàn cho người thiền không bị thoát khí hỏa từ trong người ra ngoài và không bị nhiễm năng lượng âm từ bên ngoài vào cơ thể.

  • Tiếp tục suy nghĩ từ trán tới Trụ linh rồi dùng ý nghĩ là từ Trụ linh trong cơ thể sẽ liên kết tới các khu vực chứa đựng các siêu hạt năng lượng trong Vũ trụ.
  • Tiếp đến là nghĩ các dòng siêu hạt năng lượng đó lại tạo thành từng dòng và chảy tới trán.
  • Đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với điểm ở chân tóc trên trán:

+ Hít một hơi ở mũi thật sâu và nhẹ, đồng thời nghĩ là những siêu năng lượng từ chân tóc ở trán đang chảy vào trong cơ thể.

+ Thở một hơi thở ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời nghĩ là các siêu năng lượng đang tỏa ra khắp các tế bào trong khắp cơ thể.

+ Cứ lặp đi, lặp lại hít và thở ở mũi đồng thời nghĩ các siêu hạt năng lượng di chuyển vào cơ thể và lan tỏa khắp cơ thể.

Tập trung thiền dưỡng thông qua tập trung vào hơi hít và thở và suy nghĩ việc các siêu năng lượng vào và lan tỏa khắp cơ thể. Thiền dưỡng chỉ trong vòng 20 tới 30 phút. Tuyệt đối không được thiền lâu, vì thiền lâu là trí tuệ sẽ dễ dàng mất kiểm soát bản thể Tâm (Tuệ linh). Khi đó, nguy hiểm việc Tuệ linh tách ra khỏi cơ thể và bị di chuyển vào những khu vực năng lượng tiêu cực hay những cơn bão năng lượng hoại diệt trong Vũ trụ.

Như vậy, việc thiền xả và dưỡng chỉ nên thiền khoảng 30 tới 50 phút là hợp lý nhất.

Không mong hay cầu nhìn thấy cảnh hoặc thấy năng lượng, cứ dùng ý nghĩ để năng lượng được vận hành. Tập trung thực hành đúng, bởi quá trình thiền cơ bản cần thời gian dài mới thấy được năng lượng và sau đó sẽ chuyển sang các phương pháp thiền cao hơn.

VII.    Phương pháp thiền định trị liệu chữa các bệnh Tâm

Phương pháp thiền định trị liệu chữa các bệnh Tâm bao gồm thiền xả và thiền dưỡng. Đây cũng là phương pháp thiền cân bằng năng lượng bởi vận hành cơ chế và hấp thụ các siêu năng lượng trong không gian Vũ trụ về để cấu tạo, cân bằng các cấu trúc năng lượng bị đứt trong Tâm.

Trước khi thiền phải nhớ lại những kiến thức về năng lượng. Năng lượng xấu và không nên lấy đó là năng lượng màu đỏ máu, năng lượng màu đen, năng lượng màu xám. Những năng lượng cần phải lấy khi thiền là các siêu hạt năng lượng vàng óng ánh, xanh ngọc lưu ly, hạt bóng hỏa và hạt năng lượng Nhật Sư.

Những người nên thiền định theo phương pháp thiền trị liệu chữa bệnh Tâm là:

  • Những người hay bị lạnh người, hay bị đau mỏi vai gáy, hay đau đầu mà không rõ nguyên nhân.
  • Những người mắc chứng bệnh trầm cảm, rối loạn lo âu.
  • Những người mắc bệnh đa nhân cách, hoang tưởng, ảo thanh, ảo giác, những người mắc bệnh tâm thần.
  • Những người hay bị vong âm nhập người, âm hành, căn hành.
  • Những người đã tu luyện các môn pháp tu, các tín ngưỡng, các tôn giáo khi thiền mà bị mất kiểm soát, tay múa may bắt ấn, đầu và người lắc lư.

Để việc thiền định trị liệu chữa trị các bệnh Tâm nhanh khỏi và triệt để, cần phải kết hợp song song là học và thực hành theo hệ thống tri thức của hai Chân lý.

Phương pháp thiền trị liệu chữa các bệnh Tâm gồm có hai giai đoạn, đó là thiền xả và thiền dưỡng:

Giai đoạn 1 – thiền xả:

Thiền xả là lấy những siêu năng lượng tốt trong Vũ trụ vào cơ thể để đẩy, thanh lọc những năng lượng âm dư thừa ra khỏi cơ thể. Do bệnh Tâm với bản chất là Trụ linh trong Tâm bị phóng xạ âm quá nhiều, nên cần có các siêu hạt năng lượng vào chuyển hóa và đẩy bớt những dư thừa của năng lượng âm. Giai đoạn thiền xả chỉ nên thiền 15 đến 20 phút mỗi lần thiền. Giai đoạn thiền xả gồm có những bước thực hiện như sau:

  • Khi thiền xả, phải mở mắt trong toàn bộ quá trình thiền, tuyệt đối không được nhắm mắt.
  • Ngồi nhìn vào bức tường hoặc một vật thể nào đó tĩnh lặng.
  • Ngồi với tư thế thoải mái nhất, khi ngồi không quan trọng việc để chân ra sao, miễn là thoải mái cơ thể để thực hiện việc hành thiền thuận lợi nhất.
  • Hai tay để lên hai đầu gối, hướng hai lòng bàn tay xuống đất để tạo thành cơ chế xả năng lượng âm (năng lượng xấu) trong cơ thể chuyển hóa xuống đất. Bản chất của Trái đất là có lực hút nên việc xả âm phải thuận với bản chất đó để đạt hiệu quả trong thiền xả. Phải mở mắt để không bị mất kiểm soát trong tâm và ý nghĩ.
  • Tập trung suy nghĩ ở trán, cạnh chân tóc. Điểm này chính là nơi kết tụ trạm phát sóng trí tuệ của con người đến vạn vật, Vũ trụ. Do đó phải tập trung suy nghĩ vào trán, chỗ chân tóc, để kích hoạt các mã sóng trí tuệ nhằm thiết lập liên kết với mã sóng trí tuệ trong Trụ linh và Vũ trụ.
  • Hãy truyền ý nghĩ từ não bộ tới Trụ linh trong Tâm, tức là truyền suy nghĩ tới bên trong cơ thể mình để sóng điện được liên kết từ não bộ tới Trụ linh của Tâm. Từ Trụ linh của Tâm, hãy truyền sóng điện tới Vũ trụ. Hãy nghĩ tới Vũ trụ với tinh cầu hình tròn khổng lồ bao gồm vô lượng dải thiên hà, trong lõi của Vũ trụ là không gian chứa đựng siêu năng lượng vàng óng ánh; bên ngoài Vũ trụ, bao trùm Vũ trụ là siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly; bên trong các hành tinh là các hạt năng lượng bóng hỏa đang được lưu giữ; những hạt năng lượng Nhật Sư có ở lõi và khắp không gian Vũ trụ. Việc nhớ được những nơi chứa đựng các siêu năng lượng chính là việc từ trí tuệ đã vận hành Trụ linh liên kết tới những siêu năng lượng đó rồi. Để làm được việc này thì phải đọc nhiều lần tri thức của hai Chân lý. Đó chính là thiền định theo hai Chân lý, bởi các siêu năng lượng được sản sinh bởi hai Chân lý.
  • Suy nghĩ có những dòng chảy lớn siêu năng lượng màu vàng óng ánh, siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly, hạt bóng hỏa, siêu hạt năng lượng Nhật Sư chảy vào trán. Hãy nghĩ có những dòng chảy đó và chảy rất mạnh vào trán. Việc nghĩ chính là dùng ý để dẫn năng lượng, tức là khi trí tuệ nghĩ, Tuệ linh sẽ thực hiện cơ chế liên kết và hấp thụ các siêu năng lượng về. Do đó, phải nghĩ liền mạch, không để bị đứt mạch bởi những tạp niệm khi hành thiền, phải tập trung không để đứt mạch suy nghĩ về các dòng năng lượng chảy vào trán.
  • Khi đó đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với chỗ chân tóc trên trán là một. Có nghĩa là hãy hình dung chỗ trán là một cái mũi thứ Cả 2 cái mũi cùng nhau hít năng lượng vào cơ thể.
  • Kết hợp bài niệm Hóa độ với từng hơi hít và thở cùng với lấy các siêu năng lượng vào cơ thể:

+ Niệm 3 lần câu “Nam mô A Di Di Đà Phật” và 1 lần câu “Ta hóa độ cho Thân – Tâm – Trí chuyển sinh an lạc. Đạo”.

+ Tiếp đó là hít một hơi ở mũi thật nhẹ nhàng và dài cho tới tận cùng của một hơi thì cũng nghĩ là các siêu năng lượng cũng từ trán chảy vào cơ thể và lan tỏa khắp cơ thể.

+ Tiếp đó là khi thở bằng mũi cũng thở nhẹ và dài cho tới tận cùng thì cũng nghĩ năng lượng âm với màu đỏ máu, màu đen, màu xám (năng lượng xấu) chạy ra hai lòng bàn tay rồi thoát xuống đất.

+ Cứ như vậy, niệm 1 lần bài Hóa độ xong rồi lại hít và thở 1 lần. Hít vào ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời nghĩ các siêu năng lượng sẽ từ chân tóc chỗ trán di chuyển vào và lan tỏa khắp cơ thể. Thở ra ở mũi thật dài và nhẹ, đồng nhất với ý nghĩ là các siêu năng lượng đang đẩy các năng lượng âm thoát ra khỏi hai lòng bàn tay rơi xuống đất.

Thật tập trung niệm bài Hóa độ trước khi hít và thở ở mũi đồng nhất với chỗ chân tóc để hấp thụ được những siêu năng lượng vào và xả những năng lượng âm ra khỏi hai bàn tay. Thiền xả trong vòng 15 đến 20 phút rồi chuyển sang bước thiền dưỡng cân bằng năng lượng âm dương trong cơ thể.

Tuyệt đối không được nhắm mắt khi thiền xả.

Giai đoạn 2 – thiền dưỡng:

Thiền dưỡng là giai đoạn kế tiếp của thiền xả. Thông qua giai đoạn thiền dưỡng để các siêu hạt năng lượng trong không gian Vũ trụ sẽ di chuyển vào cơ thể để tái tạo lại những liên kết năng lượng bị đứt trong Tâm (Tuệ linh, Linh hồn).

Thiền dưỡng gồm có các bước sau:

  • Tư thế ngồi vẫn là thoải mái nhất.
  • Mở mắt trong toàn bộ thời gian thiền dưỡng, tuyệt đối không được nhắm mắt.
  • Hai tay từ tư thế thiền xả chuyển sang tư thế bắt ấn lại để phong tỏa khí hỏa không thoát ra ngoài khi hành thiền. Tư thế bắt ấn là hai tay đặt lên nhau, hai đầu ngón cái chạm vào nhau. Phong ấn như vậy để an toàn cho người thiền không bị thoát khí hỏa từ trong người ra ngoài và không bị nhiễm năng lượng âm từ bên ngoài vào cơ thể.
  • Tiếp tục suy nghĩ từ trán tới Trụ linh rồi dùng ý nghĩ là từ Trụ linh trong cơ thể sẽ liên kết tới các khu vực chứa đựng các siêu hạt năng lượng trong Vũ trụ.
  • Tiếp đến là nghĩ các dòng siêu hạt năng lượng đó lại tạo thành từng dòng và chảy tới trán.
  • Niệm bài Hóa độ và đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với điểm ở chân tóc trên trán:

+ Niệm 3 lần câu “Nam mô A Di Di Đà Phật” và 1 lần câu “Ta hóa độ cho Thân – Tâm – Trí chuyển sinh an lạc. Đạo”.

+ Hít một hơi thở ở mũi thật sâu và nhẹ, đồng thời nghĩ là những siêu năng lượng từ chân tóc ở trán đang chảy vào trong cơ thể.

+ Thở một hơi thở ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời nghĩ là các siêu năng lượng đang tỏa ra khắp các tế bào trong khắp cơ thể.

+ Tiếp tục niệm bài Hóa độ 1 lần rồi lại hít và thở đồng nhất với điểm ở chân tóc chỗ trán để đưa các siêu năng lượng vào cơ thể.

Tập trung niệm bài Hóa độ và thiền dưỡng bởi mỗi lần hít và thở.

Luôn luôn phải mở mắt, không được nhắm mắt trong quá trình thiền trị liệu chữa bệnh Tâm. Bởi người bị bệnh Tâm mà thiền nhắm mắt là bị mất kiểm soát nên rất nguy hiểm, do đó phải mở mắt khi thiền định.

Như vậy, việc thiền trị liệu và chữa bệnh Tâm chỉ nên thiền khoảng 30 tới 50 phút là hợp lý nhất.

Lưu ý: Sau thời gian dài thiền trị liệu chữa trị bệnh Tâm khỏi bệnh mới có thể thực hiện phương pháp thiền định cơ bản. Khi các bệnh Tâm khỏi là không còn các biểu hiện của bệnh, cơ thể khỏe mạnh, cơ thể ấm áp, tinh thần an vui.

VIII. Phương pháp thiền định trị liệu và chữa trị các bệnh lý trên cơ thể

Phương pháp thiền định trị liệu và chữa các bệnh lý trên cơ thể được thực hiện sau thời gian dài thực hiện phương pháp thiền định cơ bản.

Khi một người mắc cả bệnh lý và bệnh Tâm thì cần thực hiện phương pháp thiền trị liệu chữa trị bệnh Tâm khỏi xong rồi thực hành thiền định theo phương pháp thiền cơ bản trước, sau đó mới thực hiện thiền định trị liệu và chữa trị bệnh lý trên cơ thể.

Những người thực hiện thiền định trị liệu và chữa trị các chứng bệnh lý bao gồm những người mắc các chứng bệnh liên quan tới cơ thể thân tướng. Các bệnh lý bao gồm từ bệnh lý giản đơn cho tới bệnh ung thư, các chứng bệnh nan y.

Việc thiền định trị liệu và chữa các chứng bệnh lý cơ thể cần phải thực hành song song với việc đọc, học toàn bộ hệ thống giáo lý trong hệ thống tri thức hai Chân lý, từ đó từng bước thực hành đời sống tích cực sẽ giúp cho căn bệnh được nhanh khỏi và triệt để.

Phương pháp thiền cơ bản của hai Chân lý gồm có hai giai đoạn, đó là thiền cơ bản trước rồi thiền trị liệu chữa bệnh lý:

Giai đoạn 1 – thiền cơ bản:

Thiền cơ bản với thiền xả và thiền dưỡng trong vòng 30 phút. Thiền cơ bản được đề cập ở mục VI.

Giai đoạn thiền cơ bản sẽ chữa bệnh tổng hợp cho cả cơ thể. Những bệnh huyết áp, những bệnh về máu… sẽ được chữa trị thông qua thiền định cơ bản này, do vậy, việc thiền định cơ bản là vô cùng quan trọng.

Sau khi thiền cơ bản xong sẽ thực hành thiền định trị liệu và chữa bệnh lý cho cơ thể.

Giai đoạn 2 – thiền trị liệu và chữa trị bệnh lý cho cơ thể:

Thiền trị liệu và chữa trị các bệnh lý trong cơ thể là việc lấy các siêu hạt năng lượng trong Vũ trụ vào các vị trí bị bệnh trong cơ thể, các siêu hạt năng lượng sẽ trung hòa và triệt tiêu các tế bào độc hại tại các điểm bị bệnh đó. Giai đoạn này gắn liền với phương pháp thiền dưỡng.

Thiền trị liệu và chữa trị các chứng bệnh lý bao gồm các bước sau:

  • Tư thế ngồi vẫn là thoải mái nhất. Nhắm hai mắt.
  • Hai tay bắt ấn lại để phong tỏa khí hỏa không thoát ra ngoài khi hành thiền. Tư thế bắt ấn là hai tay đặt lên nhau, hai đầu ngón cái chạm vào nhau. Phong ấn như vậy để an toàn cho người thiền không bị thoát khí hỏa từ trong người ra ngoài và không bị nhiễm năng lượng âm từ bên ngoài vào cơ thể.
  • Tiếp tục suy nghĩ từ trán tới Trụ linh rồi dùng ý nghĩ là từ Trụ linh trong cơ thể sẽ liên kết tới các khu vực chứa đựng các siêu hạt năng lượng trong Vũ trụ.
  • Tiếp đến là nghĩ các dòng siêu hạt năng lượng đó lại tạo thành từng dòng và chảy tới trán.
  • Đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với điểm ở chân tóc trên trán:

+ Hít một hơi ở mũi thật sâu và nhẹ, đồng thời nghĩ là những siêu năng lượng từ chân tóc ở trán đang chảy vào vị trí mắc bệnh trong cơ thể.

+ Thở một hơi thở ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời không nghĩ gì về năng lượng, tức là kết tụ các siêu năng lượng ở chỗ bị bệnh.

+ Cứ lặp đi, lặp lại hít và thở ở mũi đồng thời với nghĩ các siêu hạt năng lượng di chuyển chỗ mắc bệnh trong cơ thể, khi thở ra không nghĩ gì về năng lượng.

Tập trung thiền trị liệu và chữa bệnh lý trong cơ thể trong khoảng 20 đến 30 phút. Không thiền nhiều, một ngày có thể thiền vào buổi sáng và buổi tối. Tránh các giờ không nên thiền. Khi thiền tập trung vào hơi hít và thở cũng như đồng nhất các siêu năng lượng tới vị trí chỗ bệnh trong cơ thể.

Khi thiền, tinh thần phải an vui, lạc quan để những siêu hạt năng lượng tập trung trung hòa các tế bào độc hại được hiệu quả. Nếu quá trình thiền trị liệu chữa bệnh mà u uất, tiêu cực sẽ tạo ra nhiều năng lượng âm, khi đó các siêu hạt năng lượng sẽ không thể tập trung trung hòa các tế bào độc. Thậm chí các siêu hạt năng lượng khó mà di chuyển được vào cơ thể bởi tinh thần không an vui cũng như không tập trung.

Như vậy, việc thiền trị liệu và chữa trị bệnh lý từ 50 đến 60 phút là hợp lý.

IX.  Phương   pháp   thiền   quán   các   năng lượng

Phương pháp thiền quán để thấy các siêu năng lượng là phương pháp giúp cho người hành thiền khám phá các cấu trúc năng lượng phức tạp, các cấu trúc siêu vật chất là dạng sống Tuệ linh, những cấu trúc mà mắt thường con người không thể thấy được.

Điều kiện để thực hiện thiền quán:

  • Người đang bị âm hành, bị các căn bệnh về Tâm thì tuyệt đối không nên thiền quán, bởi khi đã bị các bệnh về Tâm, tức là Trụ linh đang phóng xạ năng lượng âm, trong cấu trúc năng lượng của Tuệ linh có quá nhiều hạt năng lượng âm là nghiệp lực rung lắc, quay xung quanh các hạt năng lượng dương. Do đó, khi thiền quán sẽ thấy các ảo ảnh, ảo thanh, ảo giác và nhìn thấy những nghiệp lực trong các kiếp quá khứ, điều này sẽ vô cùng nguy hiểm cho người thiền nếu không có người dẫn dắt thiền.
  • Để thiền quán năng lượng, người thiền phải thấu hiểu giáo lý trong hệ thống tri thức của hai Chân lý, thấu hiểu bản chất các loại năng lượng và các cảnh giới trong không gian Vũ trụ. Việc thấu hiểu, nhận biết để đảm bảo khi thiền quán sẽ an toàn, sẽ không bị các cảnh giới của ngã quỷ dẫn dụ, không bị các Chư thiên lừa gạt thử thách.
  • Để thực hành thiền quán năng lượng thì người hành thiền phải thực hiện phương pháp thiền định đạt đến cảnh giới thiền cơ bản. Tức là cơ thể ấm áp, cân bằng năng lượng, không bị bệnh âm thì mới nên thực hành thiền quán năng lượng.

Thiền quán năng lượng là bước đệm cho việc người hành thiền quán các cảnh giới thâm sâu hơn trong bản thể vật chất và trong không gian Vũ trụ.

Các bước thiền quán năng lượng:

  • Tư thế ngồi thiền giống với thiền dưỡng, đó là ngồi thoải mái, hai tay đặt lên nhau và cùng hướng 2 lòng bàn tay lên trên, hai đầu ngón tay cái chạm vào nhau để phong tỏa không cho năng lượng dương, năng lượng hỏa thoát ra khỏi hai lòng bàn tay.
  • Nhắm hai mắt lại.
  • Tập trung suy nghĩ ở trán, cạnh chân tóc. Điểm này chính là nơi kết tụ trạm phát sóng trí tuệ của con người đến vạn vật, Vũ trụ. Do đó phải tập trung suy nghĩ vào trán, chỗ chân tóc, để kích hoạt các mã sóng trí tuệ nhằm thiết lập liên kết với mã sóng trí tuệ trong Trụ linh và Vũ trụ.
  • Hãy truyền ý nghĩ từ não bộ tới Trụ linh trong Tâm, tức là truyền suy nghĩ tới bên trong cơ thể mình để sóng điện được liên kết từ não bộ tới Trụ linh của Tâm. Từ Trụ linh của Tâm, hãy truyền sóng điện tới Vũ trụ. Hãy nghĩ tới Vũ trụ với tinh cầu hình tròn khổng lồ bao gồm vô lượng dải thiên hà, trong lõi của Vũ trụ là không gian chứa đựng siêu năng lượng vàng óng ánh; bên ngoài Vũ trụ, bao trùm Vũ trụ là siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly; bên trong các hành tinh là các hạt năng lượng bóng hỏa đang được lưu giữ; những hạt năng lượng Nhật Sư có ở lõi và khắp không gian Vũ trụ. Việc nhớ được những nơi chứa đựng các siêu năng lượng chính là việc từ trí tuệ đã vận hành Trụ linh liên kết tới những siêu năng lượng đó rồi. Để làm được việc này thì phải đọc nhiều lần hệ thống tri thức của hai Chân lý. Đó chính là thiền định theo hai Chân lý, bởi các siêu năng lượng được sản sinh bởi hai Chân lý.
  • Suy nghĩ có những dòng chảy lớn siêu năng lượng màu vàng óng ánh, siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly, hạt bóng hỏa, siêu hạt năng lượng Nhật Sư chảy vào trán. Hãy nghĩ có những dòng chảy đó và chảy rất mạnh vào trán. Việc nghĩ chính là dùng ý để dẫn năng lượng. Tức là khi trí tuệ nghĩ, Tuệ linh sẽ thực hiện cơ chế liên kết và hấp thụ các siêu năng lượng về. Do đó, phải nghĩ liền mạch, không để bị đứt mạch bởi những tạp niệm khi hành thiền, phải tập trung không để đứt mạch suy nghĩ về các dòng năng lượng chảy vào trán.
  • Khi đó đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với chỗ chân tóc trên trán là một. Có nghĩa là hãy hình dung chỗ trán là một cái mũi thứ Cả 2 cái mũi cùng nhau hít năng lượng vào cơ thể.

+ Hít một hơi ở mũi thật nhẹ nhàng và dài thì cũng nghĩ là các siêu năng lượng cũng từ trán chảy vào cơ thể và lan tỏa khắp cơ thể.

+ Tiếp đó là khi thở bằng mũi cũng thở nhẹ và dài thì nghĩ các siêu năng lượng lan tỏa khắp cơ thể.

+ Cứ như vậy, đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với ở trán chỗ chân tóc. Hít vào ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời nghĩ các siêu năng lượng sẽ từ chân tóc chỗ trán di chuyển vào và lan tỏa khắp cơ thể. Thở ra ở mũi thật dài và nhẹ, đồng nhất với ý nghĩ là các siêu năng lượng đang lan tỏa khắp cơ thể.

+ Tập trung thiền đưa các siêu năng lượng vào cơ thể và tỏa ra khắp cơ thể trong khoảng 5 phút.

  • Sau 5 phút thiền đưa các siêu năng lượng vào cơ thể, người thiền định hãy quên đi hơi thở, không tập trung vào hơi thở nữa, cũng không đưa năng lượng vào cơ thể nữa.
  • Tập trung nghĩ thật sâu về các siêu năng lượng. Hãy tập trung ý nghĩ và nhìn vào não bộ. Hãy coi trong não bộ đang là cả Vũ trụ rộng lớn bao la. Vì chưa thấy nên trong não bộ vẫn là màu đen tối. Dùng ý nghĩ để quán (thấy) siêu năng lượng nào muốn thấy. Nghĩ và muốn những siêu hạt năng lượng đó hiện hữu trong não bộ.
  • Tập trung vào việc quán để thấy các siêu hạt năng lượng. Quên đi hơi thở và không lấy siêu năng lượng vào cơ thể.
  • Thực hiện thiền quán năng lượng chỉ trong vòng 20 đến 30 phút.
  • Có thể mất nhiều ngày, nhiều tháng hoặc nhiều năm mới đạt được thành tựu là thấy được các siêu năng lượng hoặc các năng lượng khác. Do đó phải kiên trì, không cầu mong việc thấy được năng lượng.

Khi thiền quán được các năng lượng, các siêu năng lượng thì mới tiếp tục các phương pháp thiền quán cảnh giới và đi cảnh giới trong không gian Vũ trụ.

X.   Phương pháp thiền quán thế giới quan xung quanh

Phương pháp thiền quán để thấy thế giới quan xung quanh chỉ được thực hiện sau khi đã đạt được thành tựu thiền quán năng lượng. Bởi thế giới quan xung quanh là các cấu trúc năng lượng, nên muốn thấy được thế giới quan thì cần phải thấy được các cấu trúc năng lượng trong thiền định rồi mới thực hiện được.

Các loại thiền quán thế giới quan xung quanh:

– Thiền để thấy các cấu trúc năng lượng an trụ tại điều thổ, trong lá bùa, trong lô nhang thờ, trong tượng thờ:

+ Thấu hiểu tri thức của hai Chân lý, thấu hiểu các năng lượng tốt, năng lượng xấu, các siêu năng lượng.

+ Trước khi thực hành thiền quán cần phải niêm phong điền thổ nơi thực hành thiền quán cho an toàn. Phương pháp niêm phong điền thổ là: hai tay nắm lại nhau rồi đặt lên trán và hãy nghĩ thật sâu về Ngài A Di Di Đà Phật đã thành đạo bởi hai Chân lý; hạ hai tay xuống ngực rồi chắp lại như khi lễ, niệm 3 niệm “Nam mô A Di Di Đà Phật”; sau đó lấy tay phải đập 3 đập xuống nền điền thổ; đập đến lần thứ 3 thì xoay thuận tay theo chiều kim đồng hồ, vừa xoay vừa đọc 1, 2, 3 rồi đọc chữ Đạo. Như vậy là niêm phong xong.

+ Sau khi niêm phong xong thì mới ngồi thiền định kiểm tra các cấu trúc năng lượng ở điền thổ, tượng thờ, ban thờ, bùa.

+ Tư thế ngồi thiền như thiền dưỡng.

+ Hai mắt nhắm lại.

+ Tĩnh lặng, không lấy năng lượng vào cơ thể.

+ Tập trung nghĩ về điền thổ, về tượng thờ, về ban thờ, về những lá bùa.

+ Dùng ý nghĩ để nghĩ rằng Tâm (Tuệ linh, Linh hồn) của mình bao trùm toàn bộ nơi điền thổ đó.

+ Quên đi hơi thở.

+ Tập trung suy nghĩ tới Tuệ linh là hãy quán các tầng năng lượng của điền thổ, của bùa, của tượng thờ, của ban thờ xem có những loại năng lượng gì.

+ Tập trung suy nghĩ và tĩnh lặng để não bộ thông qua liên kết dây thấy được các cấu trúc năng lượng. Khi đó, những hình ảnh năng lượng âm, dương, các siêu năng lượng sẽ hiện hữu trong não bộ hoặc ở nhãn thần (điểm giữa hai con mắt).

+ Nếu có những năng lượng đen, xám, đỏ máu là nơi đó có những cấu trúc năng lượng đỏ máu là quỷ, năng lượng màu đen là tinh tà, năng lượng màu xám là vong cô hồn. Nếu có các siêu năng lượng hoặc năng lượng dương là tốt.

+ Nếu thấy hình người, hình Thần thánh, Phật… thì không nên tin vì có thể do năng lượng âm đóng giả. Hãy hướng tay phải vào họ và niệm nhiều niệm Nam mô A Di Di Đà Phật. Nếu là tinh tà, quỷ đóng giả thì họ sẽ được siêu thoát hoặc hiện nguyên hình thành muông thú, hoặc hiện thành các nhóm năng lượng âm rồi được chuyển sinh về Địa phủ. Sau đó dùng phương pháp siêu độ cho điền thổ để siêu độ cho hết tất cả các cấu trúc năng lượng âm.

– Thiền để thấy huyệt mạch hay mạch nước ngầm ở điền thổ:

+ Huyệt mạch là điểm giao nhau của ngã ba mạch nước ngầm với cột siêu năng lượng được liên kết từ lõi của Vũ trụ tới. Thấy được huyệt mạch sẽ thấy được sự vận hành của cơ chế liên kết dây đang vận hành Trái đất từ lõi của Vũ trụ.

+ Thấy mạch nước ngầm là thấy thế giới quan bên dưới lòng đất. Thấy được mạch nước ngầm để giúp người dân xác định được điểm khoan giếng lấy nước phục vụ đời sống hàng ngày.

+ Trước khi thực hành thiền quán cần phải niêm phong điền thổ nơi thực hành thiền quán cho an toàn. Phương pháp niêm phong điền thổ là: hai tay nắm lại nhau rồi đặt lên trán và hãy nghĩ thật sâu về Ngài A Di Di Đà Phật đã thành đạo bởi hai Chân lý; hạ hai tay xuống ngực rồi chắp lại như khi lễ, niệm 3 niệm “Nam mô A Di Di Đà Phật”; sau đó lấy tay phải đập 3 đập xuống nền điền thổ; đập đến lần thứ 3 thì xoay thuận tay theo chiều kim đồng hồ, vừa xoay vừa đọc 1, 2, 3 rồi đọc chữ Đạo. Như vậy là niêm phong xong.

+ Sau khi niêm phong xong thì mới ngồi thiền định kiểm tra điền thổ có mạch nước ngầm hay huyệt mạch không.

+ Tư thế ngồi thiền như thiền dưỡng.

+ Hai mắt nhắm lại.

+ Tĩnh lặng, không lấy năng lượng vào cơ thể.

+ Tập trung nghĩ về điền thổ.

+ Dùng ý nghĩ để nghĩ rằng Tâm (Tuệ linh, Linh hồn) của mình bao trùm toàn bộ nơi điền thổ đó.

+ Quên đi hơi thở.

+ Dùng ý nghĩ xin Tuệ linh cho thấy mạch nước ngầm ở điền thổ hoặc xem có huyệt mạch siêu năng lượng màu vàng óng ánh không.

+ Tập trung suy nghĩ, Tuệ linh sẽ truyền tải hình ảnh dưới lòng đất để thấy mạch nước ngầm hay không có. Tuệ linh sẽ cho thấy có huyệt mạch hay không có huyệt mạch.

XI.    Phương pháp thiền du linh tới các cõi trời

Phương pháp thiền du linh tới các cõi trời chỉ thực hiện được khi đã đạt được thành tựu thiền định quán thế giới quan xung quanh.

Thiền định du linh là Tuệ linh tách ra khỏi cơ thể để di chuyển trong cấu trúc nền của Vũ trụ. Cũng có thể Tuệ linh không tách ra khỏi cơ thể, nhưng lại truyền mã sóng trí tuệ từ Trụ linh tới các cảnh giới để thấy và truyền các hình ảnh, nội dung thông tin từ các cõi đó về Trụ linh, về não bộ.

Thiền định du linh đến các cõi trời có thể là thiền để tới cõi trời A Di Di Đà, có thể là thiền tới cõi trời Địa phủ để tham quan hoặc thuyết pháp giác ngộ hai Chân lý tới hội đồng gia tiên dòng họ.

Để thiền du linh tới các cảnh giới an toàn, người hành thiền phải thấu hiểu các cảnh giới, thấu hiểu các tầng năng lượng tốt và xấu, thấu hiểu toàn bộ hệ thống tri thức của hai Chân lý.

Đặc biệt là tuyệt đối không học pháp hay học thần thông của bất cứ Tuệ linh nào, điều mà nhân gian với vô số người hành thiền đã bị mắc kiếp nạn này. Bản thể chúng ta cũng là Tuệ linh đang an trụ trong cơ thể để tu hành, tu hành để tìm được Tâm pháp, đó là trí tuệ vô lượng khi đạt được thành tựu là bộ lọc năng lượng trong Trụ linh. Nhưng vì bị che đi trí tuệ cội nguồn, nên khi thiền định thấy các cảnh giới, thấy Chư thiên, được họ dẫn dụ dạy cho pháp thuật và thần thông thì nghĩ là kỳ diệu và đắm chìm trong những thứ đó. Trong Hội đồng Tuệ linh có những vị có sứ mệnh thử thách tất cả chúng sinh, họ sẽ dựa vào tâm sinh khởi ham muốn của người hành thiền mà dẫn dụ để người hành thiền lạc lối trong hành trình tu hành. Bản chất những thứ về thần thông, pháp thuật đều là cơ chế phân tách, liên kết năng lượng, điều mà Tuệ linh nào cũng làm được. Nếu người hành thiền mải mê điều đó thì là đi sai đường, tìm về cái Tuệ linh đã có chứ không phải tìm đến sự giác ngộ bởi khổ đau ở nhân gian. Bên cạnh đó cũng không nên hỏi những tri thức giác ngộ từ họ, bởi tìm giác ngộ phải là ở dưới nhân gian, điều mà họ cũng phải thực hành ở nhân gian.

Thiền du linh chỉ là để khám phá thế giới quan Vũ trụ, nếu khi thiền định mà thấy Phật, Thần, Thánh thì không nên tin ngay, vì có thể đó là ảo ảnh do năng lượng của ngã quỷ hóa hiện. Khi đó hãy dùng bài Hóa độ để niệm và hướng bàn tay phải vào họ, nếu do năng lượng âm hóa giả thì họ sẽ tan biến.

Phương pháp thiền du linh:

  • Ngồi thiền như thiền dưỡng tại nơi không có năng lượng âm, tức là nơi thiền định phải được giải âm rồi.
  • Hai tay bắt ấn như thiền dưỡng.
  • Nhắm hai mắt lại.
  • Nghĩ về Đức A Di Di Đà Phật rồi xin Ngài cho phép Tuệ linh di chuyển tới cõi trời của Ngài là cõi A Di Di Đà hoặc xin tới cõi trời Địa phủ để tham quan hoặc xin giảng giáo lý cho gia tiên.
  • Không lấy năng lượng và cũng không tập trung vào hơi thở.
  • Hãy tĩnh lặng, suy nghĩ, truyền tải ý nghĩ từ não bộ tới Trụ linh và ý nghĩ rằng Tuệ linh hãy du linh tới cõi trời đó để tham quan hoặc để giúp đỡ gia tiên ở cõi trời Địa phủ.
  • Hãy nghĩ là Tuệ linh đang ở cõi trời đó rồi. Tuệ linh sẽ đi trong bước nhảy của sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng mà tới đó ngay trong ý nghĩ.
  • Trên hành trình khám phá thế giới quan ở các cõi trời tuyệt đối không học hay nhận bất cứ pháp thuật, thần thông nào; cũng không nên nghe bất kỳ những điều gì khiến cho con người vi phạm giá trị đạo đức, vi phạm vào sát sinh, vi phạm vào Quy luật Nhân quả. Việc thấu hiểu giáo lý giác ngộ sẽ là hành trang bảo vệ người thiền định được an toàn bởi những cạm bẫy từ Hội đồng Tuệ linh.
  • Khi thiền tới cõi trời Địa phủ để giảng giáo lý hai Chân lý cho gia tiên nhanh được siêu thoát các cảnh giới thì người hành thiền phải nghĩ thêm và xin phép Hội đồng Hoàn đạo sau khi nghĩ và xin phép Ngài A Di Di Đà Phật. Khi tới được cõi trời Địa phủ thì hãy nghĩ và tới gặp Hội đồng Hoàn đạo, sau đó xin phép Hội đồng triệu tập hội đồng gia tiên hoặc vong linh tới để xin được thuyết pháp giác ngộ cho gia tiên hoặc vong linh. Sau khi thuyết pháp xong, xin cảm tạ sự trợ giúp của Hội đồng Hoàn đạo.

XII.  Phương pháp thiền động bằng hai Chân lý

Phương pháp thiền động bằng hai Chân lý là phương pháp thiền định trong trạng thái vận động của thân tướng để quan sát tới vạn vật, sự việc, hiện tượng để kiểm chứng sự thật của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên kết dây.

Để tiến hành thiền động được hiệu quả và chính xác, người hành thiền cần phải thấu hiểu giáo lý của hai Chân lý với cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng, học thuyết hạt năng lượng, cơ chế Quay tròn, Tam hợp, thông tin, chuyển sinh.

Khi thực hành thiền động là thân tướng vẫn đang vận động, trí tuệ và Tâm hợp nhất để tĩnh lặng. Tĩnh lặng của trí tuệ và Tâm để vận dụng hai Chân lý với cơ chế vận hành nhằm phân tích quá khứ cho tới hiện tại và tương lai của vạn vật, sự việc, hiện tượng mà ta thấy, ta tương tác, ta khám phá.

Thiền động giúp cho người hành thiền xây dựng trí tuệ, có khả năng tư duy logic, biện chứng logic nhằm thấy được sự thật chân thật của hết thảy các cấu trúc Tướng trong Vũ trụ đều được hình thành từ phôi âm dương gốc. Các phôi âm dương gốc sẽ thông qua môi trường sinh nhiệt mà phân tách rồi liên kết để tạo thành các cấu trúc vật chất; tùy theo hướng phân tách, liên kết theo hướng chuyển sinh bền vững hay phân rã mà tạo ra các cấu trúc vật chất cũng như cấu trúc trí tuệ của Tuệ linh, con người khác nhau.

Đỉnh cao của trí tuệ chính là thiền động bằng hai Chân lý để thấu hiểu tận cùng vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ.

Trong thiền định bằng hai Chân lý, có nhiều cảnh giới thiền định khác nhau. Tôi chỉ đưa ra một số phương pháp thiền định cho mọi người thực hành. Còn những cảnh giới cao của thiền định cần phải được hướng dẫn, chỉ bảo chi tiết khi thiền nên tôi không đưa vào trong hệ thống tri thức của hai Chân lý này.

***************

PHẦN KẾT:

 Như vậy, cuốn “Thực Hành Sản Sinh Hạt Năng Lượng” chính là phương pháp thực tiễn áp dụng vào bốn hình tướng Đạo, để sản sinh từng loại hạt năng lượng tận cùng. Để sản sinh được những loại hạt năng lượng tận cùng và các siêu hạt, Tuệ linh và con người phải thấu hiểu triệt để tận cùng về bản chất của hạt năng lượng tận cùng, về những cơ chế và bản chất vận hành Vũ trụ, về cội nguồn và sứ mệnh của nhân loại, về Bát Không Hoàn Đạo và hệ thống lý luận của hai Chân lý.

Khi có được trí tuệ siêu việt của hai Chân lý, Tuệ linh và con người sẽ dễ dàng thực hành sản sinh hạt năng lượng thông qua vòng trong sản sinh hạt. Trí tuệ siêu việt của hai Chân lý cùng với sự quyết tâm thực hành của Tuệ linh và con người, chính là phương pháp duy nhất để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, để đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.

Thấu hiểu những tri thức của hai Chân lý, nhân loại sẽ thấy được giá trị và sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn nhân loại, để cùng nhau lan tỏa những giá trị phát triển bền vững tới tất cả vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Đó chính là Đạo hợp nhất của Vũ trụ.

***************

Rate this post