Bài 4: Cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả

Cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả của tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người chính là cơ chế “Phân tách, liên kết dây” của hạt năng lượng.

Con người là trung tâm của Vũ trụ, là hóa thân của dạng sống Tuệ linh (với trí tuệ siêu việt nhất Vũ trụ) trong thân tướng vật chất giản đơn. Quy luật Nhân quả của con người không những là sự hội tụ Quy luật Nhân quả của tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ, mà còn được nâng cấp cao hơn bởi những quy tắc tu hành nơi nhân gian. Chính vì vậy, Quy luật Nhân quả của con người là Quy luật Nhân quả lớn nhất, bao trùm toàn bộ trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Thấu hiểu tận cùng cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả của con người chính là thấu hiểu tận cùng Quy luật Nhân quả của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Bởi Quy luật Nhân quả của các dạng sống, hay còn gọi là của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ đều có trong Quy luật Nhân quả của con người.

Việc phân tích cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả của nhân loại sẽ giải mã và cho thấy rõ sự kỳ diệu của các dạng “Phân tách, liên kết hạt năng lượng” trong Quy luật Nhân quả. Từ đó, Tuệ linh và con người sẽ biết cách gia tăng tốc độ tu hành nơi nhân gian để đắc được bộ lọc năng lượng viên mãn nhanh nhất.

 

I.  Cơ chế phân tách, liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả

1.Giới thiệu cơ chế Phân tách và liên kết dây của hạt năng lượng tận cùng

1.1 Cơ chế phân tách hạt năng lượng tận cùng

Cơ chế phân tách ra hạt năng lượng tận cùng chính là phân tách hạt năng lượng nhân quả.

Chỉnh thể đảm bảo phân tách ra được hạt năng lượng tận cùng:

  • Phôi năng lượng âm dương: đó là chỉnh thể được hợp nhất bởi một hạt năng lượng âm tận cùng với một hạt năng lượng dương tận cùng để tạo thành cơ chế tuần hoàn sóng điện thu và phát nhiệt lượng trong phôi. Nếu là một hạt năng lượng tận cùng độc lập sẽ không xảy ra cơ chế phân tách nhân đôi.
  • Trụ linh của các cấu trúc vật chất, của Tuệ linh, của con người, của muông thú: Trụ linh là cấu trúc năng lượng lớn hơn cấu trúc phôi năng lượng âm dương; Trụ linh có sự tuần hoàn sóng điện để thu và phát nhiệt lượng nên sẽ đảm bảo được khả năng phân tách hạt năng lượng khi có nhiệt lượng.

Khi chỉnh thể có phôi năng lượng hoặc có Trụ linh tương tác với nhau, tương tác trong môi trường có nhiệt lượng, có cường độ, có áp lực sẽ khiến cho phôi năng lượng âm dương hoặc Trụ linh phân tách ra một hạt năng lượng tận cùng mới. Hạt năng lượng tận cùng mới này sẽ có cơ chế liên kết dây với chỉnh thể sinh ra nó, điều này tạo thành sự liên kết của cơ chế phân tách và liên kết.

Hạt năng lượng tận cùng được phân tách ra sẽ lưu giữ toàn bộ thông tin, hình ảnh, âm thanh, ngôn ngữ, sóng rung động, nhiệt lượng, môi trường, hành động của các chỉnh thể phân tách ra nó.

Sau khi hạt năng lượng tận cùng được phân tách ra trong môi trường có nhiệt lượng sẽ xảy ra luôn cơ chế liên kết với chính chỉnh thể sinh ra nó hoặc với các hạt năng lượng tận cùng khác, bởi bản chất sóng điện âm và dương sẽ liên kết lại với nhau khi có sóng rung động tương hợp. Khi cơ chế liên kết xảy ra sẽ tiếp tục xảy ra cơ chế phân tách. Hai cơ chế này diễn ra liên tục là bản chất giúp cho vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh và con người ngày càng phát triển.

1.2.   Cơ chế liên kết dây của hạt năng lượng tận cùng

Cơ chế liên kết dây của hạt năng lượng tận cùng chính là liên kết dây của hạt năng lượng nhân quả.

Chỉnh thể đảm bảo xảy ra cơ chế liên kết dây của hạt năng lượng tận cùng là phải có ít nhất một hạt năng lượng tận cùng liên kết với từ hạt năng lượng tận cùng cho tới vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Tất cả sự liên kết phải đảm bảo có sự tuần hoàn sóng điện giữa các hạt năng lượng khi được liên kết.

Các hạt năng lượng tận cùng có sóng điện âm dương khác nhau, khi tương tác trong điều kiện có nhiệt lượng sẽ xảy ra cơ chế liên kết giữa chúng, đó là liên kết tạo phôi âm dương để phát triển.

Các hạt năng lượng âm tận cùng liên kết với nhau, các hạt năng lượng dương tận cùng liên kết với nhau, các hạt năng lượng dương và trung tính tận cùng liên kết với nhau, sự liên kết này là bởi có sự tương hợp về nội dung mã sóng rung động. Điều này tạo thành sự gắn kết, phát triển của các cấu trúc vật chất, Tuệ linh và con người.

Khi các hạt năng lượng tận cùng được liên kết với nhau tạo thành phôi năng lượng âm dương hoặc nâng cấp thành các cấu trúc vật chất lớn hơn, sau đó sẽ xảy ra luôn quá trình phân tách hạt năng lượng tận cùng. Quá trình liên kết và phân tách hạt năng lượng tận cùng sẽ luôn tuần hoàn và biện chứng với nhau.

Các hạt năng lượng tận cùng liên kết với nhau sẽ lưu giữ toàn bộ thông tin, hình ảnh, âm thanh, ngôn ngữ, sóng rung động, nhiệt lượng, môi trường, hành động của các chỉnh thể đã liên kết với nhau.

Sau khi các hạt năng lượng tận cùng liên kết với nhau bởi cùng khớp về nội dung mã sóng rung động (âm với âm, dương với dương, dương với trung tính) hoặc giữa hạt năng lượng âm tận cùng với dương tận cùng, sẽ tiếp tục xảy ra quá trình phân tách. Quá trình phân tách và liên kết liên tục diễn ra thành vòng tròn vô tận không ngừng nghỉ để nâng cấp các cấu trúc vật chất Vũ trụ, Tuệ linh và con người.

2.    Cơ chế phân tách hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả của con người

  • Cơ chế phân tách hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả của con người vừa là một Quy luật Nhân quả hoàn chỉnh, vừa chỉ là Nhân trong Quy luật Nhân quả

Cơ chế phân tách hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả là cả một quy trình của Quy luật Nhân quả hoàn chỉnh: Đó là quá trình khi chỉnh thể con người tương tác với con người, muông thú, Tuệ linh, vạn vật sẽ khiến cho Trụ linh của Tâm (Tuệ linh) rung động mà phân tách (tạo mới) một sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh. Quá trình chỉnh thể con người đó gieo duyên, hành động, kết thúc hành động thì sợi mã sóng đó đã tạo thành một hạt năng lượng. Hạt năng lượng đó sau khi được hoàn thành sẽ phân tách ra từ nhiều hơn 3 hạt năng lượng và bắn vào 3 vùng chứa đựng hạt năng lượng tương ứng. Việc hạt năng lượng được hoàn thành hoàn chỉnh sau quá trình tương tác, rung động sinh khởi, gieo duyên, hành động, kết thúc hành động đã tạo ra kết quả là những hạt năng lượng của Quy luật Nhân quả. Đó là quá trình phân tách, tạo ra thành quả là những hạt năng lượng từ quá trình sinh khởi, gieo duyên, hành động. Như vậy, cơ chế phân tách hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả đã là một diễn biến hoàn chỉnh của một quy trình Quy luật Nhân quả. Tuy nhiên, một quy trình hoàn chỉnh của Quy luật Nhân quả của cơ chế phân tách hạt năng lượng mới chỉ là một nửa của quy trình Quy luật Nhân quả của con người, bởi quy trình hoàn chỉnh của Quy luật Nhân quả của con người phải bao gồm cả quá trình diễn biến của cơ chế liên kết hạt năng lượng.

Ví dụ: Tôi giảng giáo lý về nhân quả, hai Chân lý tới một người. Quá trình tôi giảng giáo lý, từ trong Trụ linh của tôi phân tách ra nhiều hạt năng lượng di chuyển vào không gian Vũ trụ, nhiều hạt năng lượng di chuyển vào người đang nghe, nhiều hạt năng lượng được lưu giữ trong Trụ linh tôi. Đây mới chỉ là quá trình phân tách hạt năng lượng, và đó là hoàn chỉnh của quá trình từ không có mà tạo ra được nhiều hạt năng lượng để tạo thành một quy trình nhân quả hoàn chỉnh của hạt năng lượng. Tuy nhiên, nó vẫn chưa được gọi là Quy luật Nhân quả hoàn chỉnh mà tôi đang thực hiện đối với người được tôi giảng. Nhân quả chỉ hoàn thành khi người đó tin tưởng tuyệt đối vào giáo lý tôi giảng, sau đó sống và hành theo giáo lý đó thì mới gọi là Quy luật Nhân quả hoàn chỉnh mà tôi đã tạo và vận hành. Vì người đó mới chỉ là đang nghe, phân tích những tri thức mà chưa chắc đã tin và sống theo giáo lý nên chưa tạo được liên kết hạt năng lượng từ Tâm họ tới Tâm tôi, do đó trong Tâm họ mới chỉ có nhiệt lượng, thông tin từ những tri thức tôi truyền tải tới.

Cơ chế phân tách hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả là Nhân, là một nửa của một quy trình Quy luật Nhân quả: Nó mới chỉ là quá trình tương tác rung động sinh khởi, gieo duyên, hành động của các giả tướng với nhau. Quá trình này mới chỉ là tạo ra hạt năng lượng được bắn vào và lưu giữ ở 3 vùng mà chưa diễn biến quá trình vận hành của cơ chế liên kết hạt năng lượng nên mới chỉ là quá trình gieo Nhân. Quá trình gieo nhân là quá trình tạo ra, phân tách ra các hạt năng lượng mà chưa có sự liên kết của các hạt đã tạo ra.

Ví dụ: Tiếp ví dụ tôi giảng giáo lý Nhân quả, hai Chân lý cho người khác. Việc tôi giảng giáo lý Nhân quả, hai Chân lý đến người khác chính là quá trình tôi đang gieo duyên và hành động sau một quá trình rung động sinh khởi là giảng giải cho người đó nghe. Việc tôi đang giảng chưa biết có thành công hay không, chưa biết là có kết quả hay không, bởi nó còn phụ thuộc khả năng thuyết phục hợp lý và dẫn chứng đúng từ tôi, phụ thuộc vào sự trải nghiệm trong cuộc sống để người đó tin hoặc không tin. Khi người đó không tin hay đang trong quá trình xây dựng niềm tin, thì vẫn chưa thể gọi đó là kết quả, thành quả mà tôi đã đạt được, tôi chưa nhận được kết quả từ việc tôi gieo duyên và hành động. Chỉ khi người đó tin và sống theo giáo lý tôi giảng dạy thì mới tạo thành cơ chế liên kết dây của hạt năng lượng, khi đó mới gọi là hoàn chỉnh của một quy trình Quy luật Nhân quả. Tức là cần phải có diễn biến của cơ chế liên kết để tạo thành thành quả, kết quả của toàn bộ quá trình Quy luật Nhân quả.

2.2.   Cơ chế phân tách hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả của con người chính là cơ chế phân tách, bắn và lưu giữ hạt năng lượng vào 3 vùng

Trong quá trình con người tương tác với vạn vật, con người, Tuệ linh, sẽ diễn ra quá trình đấu tranh nội tâm, đó là sự dao động sóng điện từ Trụ linh trong Tâm với não bộ (trạm thu phát sóng điện) nhằm giải mã mã sóng trí tuệ của vạn vật, sự việc, hiện tượng. Quá trình đó gọi là rung động để chuẩn bị sinh khởi (hệ tư tưởng) và gieo duyên, là quá trình mà Trụ linh bắt đầu phân tách ra đoạn mã sóng trí tuệ. Tiếp tục gieo duyên cho đến khi kết thúc hành động thì sợi mã sóng trí tuệ đó được cấu tạo hoàn chỉnh và hình thành hạt năng lượng mới. Có thể có từ một cho đến nhiều duyên và nhiều hành động, sẽ phân tách từ một cho đến nhiều hạt năng lượng. Từ Trụ linh, các hạt năng lượng gốc được phân tách ra sẽ tiếp tục phân tách thành nhiều hạt để bắn và lưu giữ tại 3 vùng chứa đựng hạt năng lượng.

Quá trình rung động, sinh khởi gieo duyên, hành động của con người sẽ được lưu giữ tất cả những trạng thái cảm xúc, ý nghĩ, hình ảnh, nội dung vào trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng gốc được phân tách ra trong Trụ linh. Hạt năng lượng gốc đó phân tách ra thành nhiều hạt để bắn và lưu giữ ở 3 vùng, những hạt đó đều là bản sao của hạt năng lượng gốc, những hạt đó có cùng sóng rung động, ý nghĩ, trạng thái cảm xúc, nội dung, hình ảnh với hạt gốc.

Hạt năng lượng được phân tách, bắn và lưu giữ ở 3 vùng trong Quy luật Nhân quả đó là:

  • Vùng thứ 1: là vùng lưu giữ hạt năng lượng gốc của Quy luật Nhân quả do chỉnh thể con người tạo ra, đó chính là Trụ linh trong Tâm (Tuệ linh), nơi lưu giữ sợi mã sóng trí tuệ gốc, sau đó phân tách ra một hạt năng lượng để cấu tạo thành hạt tổng hợp bên ngoài Trụ Từ sợi mã sóng trí tuệ gốc cũng sẽ phân tách ra một hạt y nguyên hạt gốc bắn ra não bộ để tạo thành tư duy trí tuệ. Có thể hiểu là từ Trụ linh phân tách ra sợi mã sóng trí tuệ chứa đựng nội dung, hình ảnh, cảm xúc để phát triển cấu trúc Tuệ linh; để lưu giữ tại não bộ, nhằm tạo kinh nghiệm sống cho chỉnh thể con người đó. Hạt gốc được phân tách ở Trụ linh sẽ được lưu giữ và hòa quyện vào tổng mã sóng trí tuệ của Trụ linh. Việc hòa quyện đó nhằm tạo đủ số lượng mã sóng trí tuệ cho việc cấu tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, đó là quá trình trau dồi kinh nghiệm tu hành, trau dồi tình yêu thương, trau dồi đạo đức và trí tuệ cho Trụ linh của Tâm (Tuệ linh). Việc trau dồi là con đường duy nhất để Trụ linh có đủ chất và lượng mã sóng trí tuệ cho việc chuyển hóa, cấu tạo Trụ linh trở thành bộ lọc, vận hành được tất cả năng lượng trở nên bền vững, trong đó có khả năng chuyển hóa năng lượng hoại diệt thành các siêu năng lượng.
  • Vùng thứ 2: đó là không gian Vũ trụ chứa tầng năng lượng tương ứng với hạt năng lượng được phân tách từ Trụ linh. Nếu từ Trụ linh phân tách ra các hạt năng lượng tiêu cực, tức là những hạt năng lượng có sóng điện âm từ nhẹ đến siêu mạnh (là những hạt năng lượng của kết quả gieo duyên và hành động tiêu cực gây tổn thương vạn vật, Tuệ linh và con người): những hạt này sẽ được bắn và lưu giữ tại nơi chứa đựng những hạt năng lượng tiêu cực tương ứng trong không gian Vũ trụ. Nếu từ Trụ linh phân tách ra những hạt năng lượng tích cực, là những hạt năng lượng mang sóng điện dương từ nhẹ tới siêu mạnh (là kết quả của quá trình gieo duyên và hành động tích cực, đó là hành động vì lợi ích vạn vật, Tuệ linh và con người): những hạt năng lượng này sẽ được phân tách, bắn vào và lưu giữ ở không gian Vũ trụ có tầng năng lượng tích cực tương ứng. Ngoài ra còn có những hạt chân tâm, những siêu hạt cũng được phân tách và bắn vào không gian Vũ trụ tương ứng khi Trụ linh của con người phân tách ra, những hạt năng lượng này y nguyên và giống hệt hạt năng lượng gốc.
  • Vùng thứ 3: là những đối tượng chỉnh thể giả tướng mà con người tương tác khi gieo duyên và hành động. Từ hạt gốc được phân tách lưu giữ ở Trụ linh sẽ tiếp tục phân tách ra một cho đến nhiều hạt năng lượng bắn vào các chỉnh thể mà người đó tương tác gieo duyên, hành động. Những hạt năng lượng được phân tách, bắn vào các chỉnh thể giả tướng (con người, vạn vật, sự việc) có thể được lưu giữ trong chỉnh thể đó nếu họ đón nhận; nếu không đón nhận thì những hạt năng lượng đó sẽ tan biến và không còn tồn tại. Những hạt này đều y nguyên và giống hệt với hạt năng lượng gốc lưu giữ ở Trụ linh của người phân tách ra.

Những ví dụ về phân tách hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả:

Ví dụ 1: Người A giết chết người B sau quá trình xung đột lợi ích giữa hai người. Trong trường hợp này, mỗi bên đều phân tách ra rất nhiều hạt năng lượng vào 3 vùng. Người A giết người B là hành động thú tính, hành động của quá trình sân hận. Quá trình từ lúc xung đột đến khi kết thúc sự giết hại, trong Trụ linh của người A sẽ phân tách ra rất nhiều hạt năng lượng màu xám (u mê), màu đen (hành động giết hại), màu đỏ máu (tư tưởng oán hận). Từ các hạt đó sẽ phân tách ra cấu trúc Tuệ linh, phân tách ra não bộ của người A, tiếp đến là phân tách ra những hạt năng lượng y hệt hạt gốc bắn vào Trụ linh người B và tiếp tục phân tách những hạt năng lượng y hệt hạt gốc bắn vào Vũ trụ, nơi chứa đựng những hạt năng lượng có sóng điện âm (tiêu cực). Những hạt năng lượng được bắn vào Vũ trụ và Trụ linh của người B đều là bản sao của những hạt năng lượng gốc được phân tách trong Trụ linh của người A. Người B bị giết chết sẽ phân tách ra hạt năng lượng đỏ máu, đó là năng lượng oán hận. Hạt năng lượng oán hận này sẽ phân tách làm 3, một hạt lưu giữ ở Trụ linh của người B, một hạt bắn vào Vũ trụ, một hạt bắn vào Trụ linh người A. Tất cả các hạt năng lượng của cả người A và B đều chứa đựng sóng rung động, nội dung, ý nghĩ, hình ảnh của vụ giết hại đó. Đây có thể coi là tang chứng, vật chứng trong Quy luật Nhân quả được vận hành bởi cơ chế phân tách hạt năng lượng. Trong ví dụ này là quá trình phân tách ra các hạt năng lượng tiêu cực, đó là những hạt năng lượng ác nghiệp.

Ví dụ 2: Người A cứu người B khỏi chết đuối. Khi người B đang bị đuối nước, sự kêu cứu của người B đã khiến người A nghe thấy và quyết định xả thân cứu người B. Quá trình kêu cứu của người B và xả thân cứu người của người A sẽ tạo ra những hạt năng lượng. Khi hoảng loạn trong cơn tuyệt vọng của sinh tử và được người A cứu, trong Trụ linh của người B sẽ phân tách ra hạt năng lượng tích cực tri ân sự cứu giúp của người A, đó là hạt năng lượng màu vàng của sự đoàn kết cứu giúp. Hạt năng lượng này sẽ phân tách một hạt vào não bộ của người B để tri ân trong kiếp người đó, một hạt bắn vào Vũ trụ, một hạt bắn vào Trụ linh của người A. Người A vì xả thân cứu giúp người B thoát khỏi cái chết nên cũng phân tách ra hạt năng lượng màu vàng tích cực của sự đoàn kết cứu giúp trong Trụ linh, từ Trụ linh phân tách một hạt ra não bộ, một hạt được phân tách bắn vào Vũ trụ, một hạt được phân tách bắn vào Trụ linh của người B. Tất cả các hạt năng lượng này đều có sóng rung động, nội dung, hình ảnh, ý nghĩ của quá trình sự việc cứu người và tri ân. Đây chính là tang chứng của Quy luật Nhân quả bởi cơ chế phân tách hạt năng lượng, đây là phân tách hạt năng lượng thiện phước.

Ví dụ 3: Người A thuyết giảng Quy luật Nhân quả và hai Chân lý tới người B. Hai Chân lý và Quy luật Nhân quả là vô lượng mã sóng trí tuệ cấu tạo thành ánh sáng dẫn đường tu luyện cho chúng sinh nơi nhân gian của Tuệ linh và con người, nên khi người A thuyết cho người B, từ Trụ linh của người A sẽ phân tách ra vô số hạt năng lượng siêu vàng óng ánh, siêu hạt xanh ngọc lưu ly. Các siêu hạt năng lượng được phân tách ra bởi người A thấu hiểu hai Chân lý, Quy luật Nhân quả. Khi người A thuyết giảng, vô số hạt được phân tách từ Trụ linh sẽ lưu giữ trong Trụ linh của người A, vô số hạt đó sẽ phân tách ra các bản sao của hạt và lưu giữ ở não bộ của người A tạo thành kinh nghiệm thuyết pháp. Tiếp đến, từ những hạt trong Trụ linh người A sẽ lại phân tách ra vô số hạt giống các hạt gốc, những hạt này bắn và lưu giữ ở Vũ trụ, bắn vào Trụ linh người B. Lúc này, tùy thuộc người B tin và đón nhận bao nhiêu thì bấy nhiêu hạt sẽ được lưu giữ ở Trụ linh của người B, nếu người B không tin thì sẽ không có hạt nào được lưu giữ, nó sẽ tan biến.

Trong 3 ví dụ về cơ chế phân tách hạt năng lượng vào 3 vùng của Quy luật Nhân quả, ta thấy hành động cứu giúp bởi chân tay sẽ tạo ra số lượng ít hạt năng lượng và nó không phải siêu hạt năng lượng. Những hành động thuyết giảng, chỉ dẫn bởi vô số tri thức mới tạo ra vô số hạt năng lượng, và đó là các siêu hạt được tạo ra dựa trên trí tuệ thấu hiểu của người thuyết pháp. Đây chính là sự kỳ diệu của Quy luật Nhân quả.

3.   Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả của con người

  • Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả của con người vừa là một Quy luật Nhân quả hoàn chỉnh, vừa chỉ là Quả trong Quy luật Nhân quả

Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả của con người là một vòng, một quy trình Quy luật Nhân quả hoàn chỉnh. Nó là quy trình hoàn chỉnh bởi: nó là quá trình mà các chỉnh thể tương tác với nhau, rung động với nhau, sinh khởi tư tưởng, gieo duyên và hành động để các hạt năng lượng đã được tạo ra ở quá trình phân tách trước đó liên kết mã sóng trí tuệ lại với nhau; quá trình liên kết mã sóng trí tuệ giữa các hạt năng lượng với nhau chính là quá trình truyền tải sóng điện chứa đựng sóng rung động, trạng thái cảm xúc, ý nghĩ, hình ảnh, nội dung chứa đựng trong các hạt năng lượng đã được phân tách trước đó. Việc liên kết đó chính là toàn bộ diễn biến của một quy trình Quy luật Nhân quả của hạt năng lượng đã được tạo ra bởi cơ chế phân tách trước đó. Quá trình liên kết hạt năng lượng đó diễn ra như sau: khi chỉnh thể con người đã phân tách ra các hạt năng lượng, đến một thời điểm sau khi phân tách (có thể trong một kiếp người, hoặc sau đó một cho đến nhiều kiếp người), người đó tương tác với những chỉnh thể khác. Quá trình tương tác có những rung động giống với sóng rung động trong hạt năng lượng đã được phân tách trước đó, việc rung động đó đã kích hoạt sóng rung động trong chính hạt năng lượng đã phân tách lưu giữ ở Tuệ linh. Khi hạt năng lượng ở Tuệ linh rung động, nó sẽ kích thích hạt năng lượng trong Vũ trụ đã được phân tách trước đó cũng rung động theo, hạt từ trong Vũ trụ đó sẽ di chuyển vào Trụ linh để hợp nhất với hạt gốc trong Trụ linh. Có thể hạt năng lượng của những người mà trước đó cũng được nhận bởi sự phân tách làm thành 3 vùng (có thể là hạt tri ân hoặc hạt oán hận) sẽ bắt được sóng rung động và di chuyển vào Trụ linh để hợp nhất, đó là liên kết dây của hạt năng lượng. Khi hợp nhất các hạt năng lượng đã được phân tách trước đó từ 3 vùng, Trụ linh sẽ chiếu lại diễn biến của quá khứ tạo ra các hạt đó. Việc liên kết và chiếu ra như vậy sẽ chi phối toàn bộ tâm trí của người đó, khiến người đó khó có thể kiểm soát được nếu đó là các hạt năng lượng tiêu cực, và sẽ giúp cho người đó đạt được những thành tựu kỳ diệu nếu đó là những hạt năng lượng tích cực và các siêu hạt năng lượng. Việc liên kết các hạt năng lượng sẽ lại tiếp diễn cho quá trình phân tách tiếp theo. Như vậy, quá trình tương tác để rung động, sinh khởi, gieo duyên, hành động đã giúp cho Trụ linh nhận được kết quả là sự liên kết của các hạt năng lượng đã được phân tách từ trước để hợp lại tạo thành một trải nghiệm khổ đau hay an vui, hay hạnh phúc hay chướng ngại mới. Đó chính là một quy trình Quy luật Nhân quả hoàn chỉnh của hạt năng lượng.

Ví dụ: Tôi giảng hai Chân lý và Quy luật Nhân quả cho một người. Khi tôi giảng xong cũng là lúc những hạt năng lượng được phân tách và bắn vào 3 vùng lưu giữ. Đến một ngày nào đó, tôi gặp một người khác, quá trình trò chuyện, tôi thấy người này chú ý và thích thú khi tôi gieo duyên nói về Nhân quả. Quá trình tôi tương tác rung động về Quy luật Nhân quả với người đó sẽ khiến các hạt năng lượng được tạo ra từ lần trước tôi giảng về Quy luật Nhân quả và hai Chân lý rung động theo, từ Trụ linh tôi sẽ rung động trước, kế tiếp là các hạt trong Vũ trụ cũng rung động, chúng sẽ liên kết lại và chiếu đến não bộ tôi những hình ảnh tôi đã từng giảng về hai Chân lý và Quy luật Nhân quả. Khi đó tôi được hội tụ sức mạnh bởi kinh nghiệm từ những hạt năng lượng đã được phân tách trước đó. Khi chúng liên kết lại sẽ giúp cho người nghe có được niềm tin bởi sự thuyết phục đúng từ tôi. Đây chính là thành tựu, kết quả mới dựa trên quá trình phân tách trước đó. Nó là cả quá trình Quy luật Nhân quả từ rung động, sinh khởi gieo duyên, hành động để tạo ra sự liên kết của hạt năng lượng là thành quả mới.

Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả của con người là Quả trong Quy luật Nhân quả, đó là một nửa của quy trình Quy luật Nhân quả. Đó là những kết quả của toàn bộ quá trình rung động sinh khởi, gieo duyên, hành động để phân tách trước đó. Quả trong quy trình của Quy luật Nhân quả chính là kết quả, dù nó là tích cực hay tiêu cực. Quả là thể hiện sự kết thúc cho một quy trình Quy luật Nhân quả, đồng thời nó mở ra một vòng quy trình Quy luật Nhân quả tiếp theo. Cơ chế liên kết hạt năng lượng của Quy luật Nhân quả là liên kết của những hạt năng lượng đã tạo ra bởi cơ chế phân tách trước đó, bởi nó có cùng mã sóng rung động. Nó không liên kết với những hạt năng lượng không cùng mã sóng. Điều này cho thấy, cơ chế liên kết là kết quả hợp nhất của các hạt năng lượng được tạo ra bởi cơ chế phân tách trong Quy luật Nhân quả.

Ví dụ: Tôi giảng hai Chân lý và Quy luật Nhân quả cho một người. Khi tôi giảng, người đó chưa tin ngay, nhưng những thông tin tôi giảng đã được Trụ linh của họ hấp thụ. Sau quá trình trải nghiệm cuộc sống, người đó tin và hành theo hai Chân lý và giáo lý, người đó lại giảng cho người khác. Lúc này, Trụ linh họ thông qua thông tin đã được lưu giữ sẽ liên kết với hạt năng lượng tôi đã bắn vào Vũ trụ khi tôi giảng cho họ trước kia. Do đó, họ có kinh nghiệm giảng bởi những thông tin mà họ đã hấp thụ từ tôi, cũng như những hạt năng lượng của tôi trong Vũ trụ liên kết về họ. Đây chính là thành quả của tôi cũng như của người đó sau quá trình người đó sinh khởi rung động, gieo duyên, hành động giảng cho người khác để nhận được kết quả là sự liên kết hạt năng lượng của tôi và người đó. Khi người đó giảng cho người khác thì lại tiếp diễn luôn cơ chế phân tách hạt năng lượng vào 3 vùng. Như vậy, cơ chế liên kết xong sẽ xuất hiện phân tách, phân tách xong sẽ xuất hiện liên kết lại, cứ thế tạo thành vòng tròn Quy luật Nhân quả vô tận. Và tất nhiên, đây là kết quả tích cực, là thành quả ngọt ngào mà tôi đã nhận được bởi quá trình tôi phân tách hạt trước đó đã được liên kết lại với nhau và nó lại tiếp tục phân tách bởi chính người đã được tôi thuyết giảng.

3.2.    Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả của con người chính là cơ chế liên kết hạt năng lượng từ 3 vùng

Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả chính là quá trình liên kết, hợp nhất các hạt năng lượng đã được phân tách ở quá trình phân tách (đã bắn và lưu giữ ở 3 vùng).

Điều kiện để xảy ra cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả:

  • Phải đã diễn ra quá trình phân tách hạt năng lượng trước đó, tức là phải có hạt năng lượng từ 3 vùng để liên kết.
  • Phải có quá trình tương tác, rung động, gieo duyên, hành động để các hạt năng lượng đã phân tách từ 3 vùng liên kết lại, hợp nhất lại với nhau.

Quá trình liên kết hạt năng lượng trong quy trình Quy luật Nhân quả diễn ra như sau: Khi chỉnh thể con người tương tác với các giả tướng sẽ tạo ra sóng rung động trong Trụ linh. Nếu trong Trụ linh cũng có sợi mã sóng trí tuệ trùng với sóng rung động mới đang diễn ra, sợi mã sóng trí tuệ trong hạt đó sẽ nhận diện và được kích hoạt. Hạt năng lượng đó sẽ rung động mạnh, kích hoạt hạt năng lượng trong Vũ trụ và hạt năng lượng nó đã phân tách vào các giả tướng khác cùng rung động theo. Cả 3 hạt ở 3 vùng cùng rung động là vì nó giống nhau, nó đều từ Trụ linh của người đó đã phân tách trước đó. Tiếp theo, người đó sinh khởi tư tưởng gieo duyên thì 3 hạt năng lượng sẽ hợp nhất tại Trụ linh và chi phối hành động của người đó. Nếu đó là những hạt năng lượng tiêu cực thì người đó khó mà kiểm soát được sự chi phối của liên kết hạt, nó sẽ làm cho người đó tiếp tục gieo duyên và hành động tiêu cực. Nếu là liên kết của các hạt năng lượng tích cực, sẽ là thúc đẩy cho những gieo duyên và hành động tích cực tiếp theo. Quá trình gieo duyên, hành động tiếp theo chính là vòng tròn Quy luật Nhân quả mới được vận hành và hình thành.

Những ví dụ về cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả:

Ví dụ 1: Kiếp trước do xung đột lợi ích mà người A đã giết chết người B, người A đã phân tách ra các hạt năng lượng tiêu cực là xám, đen, đỏ máu và đón nhận cả năng lượng đỏ máu oán hận của người bị giết. Kiếp này, trong cuộc sống lại có xung đột lợi ích, việc xung đột lợi ích chính là sóng rung động trùng với mã sóng rung động trong các hạt năng lượng đã tạo ra ở kiếp quá khứ. Khi đó, lần lượt các hạt năng lượng màu xám, màu đen, màu đỏ máu trong Trụ linh người A rung động; tiếp đến những hạt năng lượng xám, đen, đỏ máu trong Vũ trụ cũng rung động và truyền vào Trụ linh người A; những hạt năng lượng oán hận của người bị giết kiếp trước (được phân tách vào không gian Vũ trụ) cũng bắt được sóng rung động và di chuyển vào Trụ linh người A. Người A sẽ bị liên kết của các hạt năng lượng tiêu cực chi phối, dẫn đến mất kiểm soát và trở nên sân hận. Từ việc sân hận đó người A có thể vi phạm pháp luật mà bị xử tội tử hình, hay tù chung thân, có thể là tai nạn mà chết, có thể bị người khác giết hại. Thật khó để người A hóa giải và chuyển hóa những hạt năng lượng tiêu cực ác nghiệp đó. Để làm được, người A phải thấu hiểu và vận hành được cơ chế Vòng tròn sản sinh năng lượng.

Ví dụ 2: Người A kiếp trước cứu người chết đuối, kiếp này được người khác cứu khi gặp nạn (có thể cũng là bị đuối nước hoặc tai nạn nào đó). Khi người A kiếp này gặp nạn, sự hoảng sợ bởi lúc sinh tử khiến người A kêu cứu. Khi đó từ Trụ linh người A sẽ rung động mã sóng trí tuệ và kích hoạt những hạt năng lượng đã từng xả thân cứu người trong Trụ linh rung động. Sự rung động đó sẽ kích thích các hạt trong Vũ trụ mà người A phân tách ra do cứu người kiếp trước rung động, kích thích hạt năng lượng tri ân của người được cứu kiếp trước cũng rung động theo, các hạt năng lượng đó sẽ di chuyển vào Trụ linh của người A đang kêu cứu. Vì đó là những hạt năng lượng tích cực mang sóng điện dương nên khi đó nó sẽ liên kết đến với những con người có sự tri ân sự cứu giúp họ đã nhận ở các kiếp quá khứ hoặc những người nghĩa hiệp. Những người đó sẽ bắt được tín hiệu kêu cứu và họ xả thân cứu giúp người A. Đây chính là kết quả thiện nghiệp được nhận lại do kiếp trước đã gieo những duyên cứu giúp người khác. Nói đúng theo cơ chế, chính là liên kết của những hạt năng lượng tích cực sẽ hóa giải những nguy hiểm bởi mã sóng rung động tương đồng và trùng nhau. Đó là thành tựu kế thừa dựa trên việc phân tách ra các hạt năng lượng tốt trước đó.

Ví dụ 3: Kiếp trước tôi thuyết giảng hai Chân lý và Quy luật Nhân quả nên đã phân tách được vô số siêu hạt năng lượng và được bắn, lưu giữ ở 3 vùng. Kiếp này, tôi lại là người thuyết giảng hai Chân lý và Quy luật Nhân quả. Khi tôi thuyết giảng, gặp từng trường hợp khác nhau, sẽ tạo ra các dạng rung động khác nhau. Vì những rung động đó trùng hợp với các rung động của các hạt năng lượng đã được phân tách từ kiếp quá khứ, nên sẽ khiến các hạt năng lượng được lưu giữ ở 3 vùng liên kết hợp nhất lại với nhau. Khi đó tôi có trí tuệ, hình ảnh, nội dung đã từng thuyết ở kiếp quá khứ do sự rung động tương tác giống nhau, tôi sẽ thuyết giảng được tất cả những điều mà người bình thường phải tu học cả đời, thậm chí nhiều đời cũng không thể làm được. Quá trình tôi thuyết giảng kiếp này, sẽ được vô số các siêu hạt trong quá khứ ở 3 vùng liên kết về hợp nhất để bảo vệ tôi vượt qua các chướng ngại, nguy hiểm, thử thách của một kiếp người dễ dàng và hiệu quả; đồng thời giúp tôi có được thành tựu kế thừa dựa trên những thành tựu đã đạt được ở kiếp quá khứ.

Như vậy, cơ chế phân tách, liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả của con người nó diễn biến theo dòng thời gian trong hiện kiếp hoặc có thể đến nhiều kiếp. Việc diễn biến nhanh hay lâu phụ thuộc vào sự rung động do tương tác của con người với con người và vạn vật, sự việc. Đặc biệt nó còn phụ thuộc vào sự gieo duyên, sắp xếp cây Nhân quả của Hội đồng Tuệ linh (để giúp chân tu của các Tuệ linh nơi nhân gian trải nghiệm, vượt qua các khổ đau, chướng ngại, thử thách để tổng hòa hết thảy các mã sóng trí tuệ cấu tạo lại Trụ linh thành bộ lọc năng lượng).

Sự kỳ diệu trong Quy luật Nhân quả của con người chính là sự kết hợp của cơ chế phân tách, liên kết hạt năng lượng và sự sắp xếp, trợ duyên của Hội đồng Tuệ linh với bộ quy tắc tu hành, được vận hành một cách tinh tế và kỳ diệu không thể diễn tả. Chính vì vậy, không có gì là tự nhiên diễn ra, tất cả đều do Quy luật Nhân quả vận hành dựa trên đại nguyện của Tuệ linh cũng như sự sắp xếp từ Hội đồng Tuệ linh.

II.    Các hạt năng lượng được hình thành trong cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả

Cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả của con người sẽ phân tách, tạo ra những loại hạt năng lượng khác nhau, mỗi loại hạt có đặc tính sóng điện khác nhau, từ đó cấu tạo thành sự đa dạng cuộc sống của nhân loại và Vũ trụ. Hạt năng lượng được hình thành trong cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả gồm có từ hạt đơn (năm nhóm hạt năng lượng đơn) cho đến siêu hạt năng lượng.

1.  Năm nhóm hạt năng lượng đơn

  • Nhóm hạt năng lượng tiêu cực

Hạt năng lượng tiêu cực được hình thành dựa trên cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả chính là kết quả của quá trình rung động sinh khởi gieo duyên tiêu cực, hành động tiêu cực. Sinh khởi gieo duyên và hành động tiêu cực chính là gây tổn hại đến lợi ích của vạn vật, Tuệ linh và con người.

Nhóm hạt năng lượng tiêu cực là loại hạt năng lượng đơn, tức trong hạt chỉ có một sợi mã sóng trí tuệ. Trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt sẽ lưu giữ toàn bộ quá trình rung động, hệ tư tưởng, hình ảnh, ý nghĩ, hành động của các chỉnh thể phân tách ra nó.

Nhóm hạt năng lượng tiêu cực được chia ra thành 3 nhóm, mỗi nhóm tượng trưng cho sức mạnh sóng điện khác nhau. Sức mạnh sóng điện trong hạt năng lượng tiêu cực khác nhau là do mức độ gây tổn hại đến vạn vật, Tuệ linh và con người khác nhau cấu tạo thành. Hạt năng lượng tiêu cực bao gồm:

quy luật nhân quả 01

 

   Hình: Hạt năng lượng tiêu cực màu xám

+ Hạt năng lượng tiêu cực màu xám: Hạt năng lượng tiêu cực màu xám là hạt năng lượng tượng trưng cho sự u mê của con người, của chỉnh thể. Sự u mê đó là ích kỷ cho bản thân mà gây tổn thương cho Tuệ linh, con người, vạn vật ở mức nhẹ, tức là chưa gây giết hại muông thú, con người, chỉ là sự u mê và lan tỏa u mê. Do đó hạt năng lượng tiêu cực màu xám có sóng điện âm nhẹ, lực và tốc độ quay ngược chiều kim đồng hồ không mạnh. Trong hạt năng lượng màu xám có chứa đựng toàn bộ quá trình rung động sinh khởi gieo duyên, hành động u mê.

quy luật nhân quả 02

 

Hình: Hạt năng lượng tiêu cực màu đen 

+ Hạt năng lượng tiêu cực màu đen: Hạt năng lượng tiêu cực màu đen là hạt năng lượng tượng trưng cho hành động thú tính, đó là những hành động giết hại muông thú, giết hại con người, hành động gây tổn thương bốn hình tướng Đạo, gây tổn thương đến vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Hạt năng lượng tiêu cực màu đen có sức mạnh hơn hạt năng lượng tiêu cực màu xám. Trong hạt màu đen vừa kế thừa sự u mê như hạt màu xám và nó lại phát triển thành hành động gây tổn hại bốn hình tướng Đạo, tổn hại đến Tuệ linh và con người. Hạt năng lượng tiêu cực màu đen có sóng điện âm mạnh, quay ngược chiều kim đồng hồ với tốc độ lớn và mạnh, trong hạt chứa đựng toàn bộ quá trình rung động sinh khởi gieo duyên, hành động gây tổn hại bốn hình tướng Đạo và Tuệ linh, con người của chỉnh thể con người phân tách ra nó.

quy luật nhân quả

 

Hình: Hạt năng lượng tiêu cực màu đỏ máu

+ Hạt năng lượng tiêu cực màu đỏ máu: Hạt năng lượng tiêu cực màu đỏ máu là hạt năng lượng tượng trưng cho hệ tư tưởng tiêu cực và hành động gây tổn hại nghiêm trọng đến bốn hình tướng Đạo, đó là tư tưởng đi ngược Quy luật Nhân quả, đi ngược quy luật tự nhiên, tư tưởng cầu cúng, tụng niệm để được hưởng bình an, hưởng cực lạc, được vãng sinh, được tài lộc, được giải hạn, và những tư tưởng phá vỡ đánh hỏng bốn hình tướng Đạo. Tư tưởng tiêu cực và lan tỏa nó chính là những hành động gây tổn hại nghiêm trọng đến vạn vật, Tuệ linh và con người. Hạt năng lượng đỏ máu có sức mạnh gấp bội lần so với hạt năng lượng màu đen và màu xám. Hạt năng lượng đỏ máu là kết quả của quá trình sinh khởi rung động u mê tạo thành hệ tư tưởng tiêu cực, dẫn đến hành động tiêu cực với kết quả là chứa đựng sân hận trong hạt. Hạt năng lượng tiêu cực màu đỏ máu có sóng điện âm cực mạnh, nó quay ngược chiều kim đồng hồ rất mạnh, trong hạt chứa đựng toàn bộ sóng rung động, sinh khởi hệ tư tưởng u mê, hành động tiêu cực của chỉnh thể tạo ra nó.

Nhóm hạt năng lượng tiêu cực hay còn được gọi là năng lượng ác nghiệp. Thông qua cơ chế phân tách và liên kết của quy trình Quy luật Nhân quả, sức mạnh sóng điện âm sẽ khống chế tâm trí và khiến cho con người không thể kiểm soát được ý nghĩ cho đến hành động, đó là sức mạnh huỷ diệt của năng lượng tiêu cực. Khi đó, con người không hiểu tại sao cuộc đời họ lại khổ đau cùng cực. Cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả sẽ giải mã cho nhân loại hiểu được tại sao.

1.2.   Nhóm hạt năng lượng tích cực phát triển

Nhóm hạt năng lượng tích cực phát triển trong Quy luật Nhân quả của con người là nhóm hạt năng lượng màu xanh lá, có sóng điện dương mạnh, hạt năng lượng quay thuận chiều kim đồng hồ. Hạt năng lượng tích cực phát triển chính là kết quả của quá trình tương tác rung động sinh khởi tích cực, gieo duyên tích cực, hành động tích cực để phát triển vạn vật, giá trị đạo đức cho nhân loại, Tuệ linh và con người mà không màng gì đến bản thân.

quy luật nhân quả

 

Hình: Hạt năng lượng tích cực phát triển màu xanh lá

 Nhóm hạt năng lượng tích cực phát triển là loại hạt năng lượng đơn, tức trong hạt chỉ có một sợi mã sóng trí tuệ. Trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt sẽ lưu giữ toàn bộ quá trình rung động, hệ tư tưởng, hình ảnh, ý nghĩ, hành động của các chỉnh thể phân tách ra nó. Hạt năng lượng phát triển mang tính kích thích sự phát triển tới vạn vật, Tuệ linh và con người trở nên bền vững. Đây là loại hạt năng lượng thiện nghiệp.

1.3.   Nhóm hạt năng lượng tích cực lan tỏa

Nhóm hạt năng lượng tích cực lan tỏa trong Quy luật Nhân quả của con người là nhóm hạt năng lượng màu đỏ lửa, có sóng điện dương rất mạnh, hạt năng lượng quay thuận chiều kim đồng hồ. Hạt năng lượng tích cực lan tỏa chính là kết quả của quá trình tương tác rung động sinh khởi tích cực, gieo duyên tích cực, hành động tích cực để lan tỏa giá trị phát triển vạn vật, giá trị đạo đức cho nhân loại, Tuệ linh và con người mà không màng gì đến bản thân. Hạt năng lượng lan tỏa mang tính rực rỡ, chói lòa, thẳng thắn bởi ánh sáng chân thật của hạt cũng như sự chân thật, thẳng thắn của con người phân tách ra nó.

Nhóm hạt năng lượng tích cực lan tỏa là loại hạt năng lượng đơn, trong hạt chỉ có một sợi mã sóng trí tuệ. Trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt sẽ lưu giữ toàn bộ quá trình rung động, hệ tư tưởng, hình ảnh, ý nghĩ, hành động của các chỉnh thể phân tách ra nó. Đây là loại hạt năng lượng thiện nghiệp.

 

Hình: Hạt năng lượng tích cực lan tỏa màu đỏ lửa

1.4.   Nhóm hạt năng lượng tích cực đoàn kết

Nhóm hạt năng lượng tích cực đoàn kết trong Quy luật Nhân quả của con người là nhóm hạt năng lượng màu vàng, có sóng điện dương siêu mạnh, hạt năng lượng quay thuận chiều kim đồng hồ. Hạt năng lượng tích cực đoàn kết chính là kết quả của quá trình tương tác rung động sinh khởi tích cực, gieo duyên tích cực, hành động tích cực để gắn kết tất cả các chỉnh thể (tiêu cực, phát triển, lan tỏa, chân tâm) cùng đoàn kết, lan tỏa, các giá trị phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con người trong sự không phân biệt. Sự nhẫn nhịn, chịu thiệt, hy sinh để gắn kết các chỉnh thể con người lại là đức tính của những con người phân tách ra hạt năng lượng đoàn kết.

Hình: Hạt năng lượng tích cực đoàn kết màu vàng

Nhóm hạt năng lượng tích cực đoàn kết là loại hạt năng lượng đơn, trong hạt chỉ có một sợi mã sóng trí tuệ. Trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt sẽ lưu giữ toàn bộ quá trình rung động, hệ tư tưởng, hình ảnh, ý nghĩ, hành động của các chỉnh thể phân tách ra nó. Đây là loại hạt năng lượng thiện nghiệp.

1.5.   Nhóm hạt năng lượng tích cực chân tâm

 

 

Hình: Hạt năng lượng tích cực chân tâm màu trắng sáng

 Nhóm hạt năng lượng tích cực chân tâm trong Quy luật Nhân quả khác với năng lượng chân tâm ban đầu. Nhóm hạt này là kết quả của quá trình rung động sinh khởi gieo duyên, hành động tích cực phát triển, lan tỏa, đoàn kết tạo ra các hạt dương cho đến các siêu hạt. Khi các hạt năng lượng tích cực và siêu hạt được hình thành thì cũng phân tách ra hạt năng lượng tích cực chân tâm. Hạt năng lượng tích cực chân tâm này khác với hạt năng lượng chân tâm ban đầu. Hạt năng lượng chân tâm ban đầu có trạng thái trắng trong, còn hạt năng lượng chân tâm tích cực có trạng thái là ánh sáng trắng chói lòa từ nhẹ đến sáng rực rỡ.

Các hạt năng lượng tích cực trong năm nhóm hạt năng lượng được tạo ra từ cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả là kết quả của toàn bộ quá trình rung động sinh khởi, gieo duyên, hành động mang tính phạm vi nhỏ lẻ cho đến rộng lớn. Tuy nhiên, nó chưa đạt đến hạt năng lượng của sự thấu hiểu về Chân lý Vạn vật và Giác ngộ, nên nó chưa phải là những hạt năng lượng kỳ diệu nhất để phát triển bền vững Vũ trụ, Tuệ linh, con người, nó vẫn là những hạt năng lượng của thiện nghiệp.

2.   Hai siêu hạt năng lượng

Hai siêu hạt năng lượng được phân tách từ cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả, đó là siêu hạt năng lượng vàng óng ánh và xanh ngọc lưu ly. Hai siêu hạt năng lượng này đều có một sợi mã sóng trí tuệ được tôi luyện cấu tạo thành từ vô số những sợi mã sóng trí tuệ của năm nhóm hạt năng lượng và năng lượng hoại diệt. Để sản sinh được hai siêu hạt năng lượng này từ cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả, người tu luyện phải thấu hai Chân lý, vận hành hai Chân lý cải tạo được Trụ linh của mình thành bộ lọc năng lượng. Từ bộ lọc năng lượng trong Trụ linh mới phân tách ra được hai siêu hạt năng lượng.

Tuệ linh phải tu hành nơi nhân gian rất nhiều kiếp, thông qua trạng thái cảm xúc từ khổ cùng cực tới an vui cùng cực nhằm hấp thụ và phân tách ra vô lượng sợi mã sóng trí tuệ trong năm nhóm hạt năng lượng, kết hợp với năng lượng hoại diệt để cấu tạo thành bộ lọc năng lượng trong Trụ linh.

Khi Trụ linh hình thành được bộ lọc, để phân tách ra các siêu hạt xanh ngọc lưu ly và vàng óng ánh thì Tuệ linh và chân tu phải lan tỏa, thuyết giảng hai Chân lý, Quy luật Nhân quả, giá trị đạo đức, con đường giác ngộ viên mãn tới hết thảy Tuệ linh và con người. Việc thuyết pháp chính là quá trình sản sinh ra vô số các siêu hạt năng lượng.

Hai siêu hạt năng lượng đều lưu giữ quá trình rung động sinh khởi, gieo duyên, hành động thuyết giảng của người phân tách ra nó. Tùy vào trí tuệ giác ngộ và mức độ thuyết giảng mà người đó sẽ phân tách ra siêu hạt vàng óng ánh hay xanh ngọc lưu ly. Cả hai siêu hạt đều có sóng điện âm, dương, trung tính nên chúng có thể quay thuận hay quay ngược chiều kim đồng hồ theo từng nhiệm vụ chúng làm. Trong phần “Vòng tròn sản sinh năng lượng” tôi sẽ phân tích kỹ về cơ chế luyện thành cũng như sản sinh ra hai siêu hạt này. Đây là loại siêu hạt năng lượng siêu thiện nghiệp.

III.   Các dạng phân tách, liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả

Các dạng phân tách, liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả là tính cho một quy trình hoàn chỉnh của Quy luật Nhân quả. Đó là một quy trình từ sinh khởi rung động gieo duyên, hành động, cho đến kết quả của các chỉnh thể, các giả tướng tương tác với nhau. Một quy trình của Quy luật

Nhân quả chính là toàn bộ quá trình phân tách và liên kết của hạt năng lượng.

Các dạng phân tách, liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả gồm có:

1.   Dạng phân tách, liên kết đơn

Dạng phân tách, liên kết đơn là trong Trụ linh của Tâm (Tuệ linh) chỉ phân tách ra một hạt năng lượng sau quá trình hoàn chỉnh một quy trình Quy luật Nhân quả; sau đó từ hạt đó phân tách ra Tuệ linh một hạt, ra não bộ một hạt, Vũ trụ một hạt, đối tượng một hạt; sau đó các hạt được phân tách ra sẽ liên kết với hạt gốc đã được phân tách ở Trụ linh.

Do chỉ có một hạt năng lượng được phân tách từ Trụ linh của chỉnh thể con người sau một quy trình Quy luật Nhân quả nên được gọi là dạng phân tách, liên kết đơn trong Quy luật Nhân quả.

Nhận diện dạng phân tách, liên kết đơn trong quy trình Quy luật Nhân quả: Đó là mọi sinh khởi gieo duyên, mọi hành động, cho đến kết quả của chỉnh thể con người mà không phải là giảng dạy lan tỏa về hệ tư tưởng, về phương pháp, về tri thức.

Vì không phải là truyền dạy về hệ tư tưởng, về phương pháp, về tri thức nên sẽ không có sự phân tách, liên kết nhiều hạt năng lượng trong cùng một quy trình Quy luật Nhân quả. Trụ linh chỉ phân tách một hạt và hạt đó không có tính liên kết với các hạt được phân tách ra trước hoặc phân tách ra sau.

Ví dụ: Ngày hôm nay ta gặp một người tai nạn, ta xả thân cứu giúp họ. Quá trình sinh khởi rung động gieo duyên cho đến hành động và kết quả đó chỉ giúp ta sinh ra một hạt năng lượng đoàn kết màu vàng. Ngày mai ta giúp một người đang đói khát một bữa ăn, quá trình này cũng chỉ phân tách trong Trụ linh một hạt năng lượng màu vàng. Ngày sau ta giết một con thú để ăn uống, quá trình này cho ta một hạt năng lượng màu đen được phân tách và liên kết. Như vậy, các hạt năng lượng được phân tách ra trong cả 3 quy trình Quy luật Nhân quả không có liên kết với nhau, nó độc lập, cô đơn trong mối quan hệ giữa 3 ngày. Tất nhiên là nó không phân tách ra đa hạt năng lượng trong một quy trình Quy luật Nhân quả, vì các quy trình trên không phải là truyền dạy về hệ tư tưởng, về phương pháp, về tri thức.

Dạng phân tách, liên kết đơn chỉ tồn tại ở năm nhóm hạt năng lượng, bao gồm tiêu cực, chân tâm tích cực, phát triển, lan tỏa, đoàn kết.

2.   Dạng phân tách, liên kết đa hạt

Dạng phân tách, liên kết đa hạt là trong Trụ linh của Tâm (Tuệ linh) sẽ phân tách ra nhiều hạt năng lượng sau quá trình hoàn chỉnh một quy trình Quy luật Nhân quả; sau đó từ nhiều hạt đó phân tách ra Tuệ linh, ra não bộ nhiều hạt, Vũ trụ nhiều hạt, đối tượng nhiều hạt; sau đó các hạt được phân tách ra sẽ liên kết với những hạt gốc đã được phân tách ở Trụ linh.

Do có nhiều hạt năng lượng được phân tách từ Trụ linh của chỉnh thể con người sau một quy trình Quy luật Nhân quả nên được gọi là dạng phân tách, liên kết đa hạt trong Quy luật Nhân quả.

Nhận diện dạng phân tách, liên kết đa hạt trong quy trình Quy luật Nhân quả: Đó là mọi sinh khởi gieo duyên, mọi hành động đều là truyền dạy, lan tỏa tri thức, hệ tư tưởng, phương pháp tới những chỉnh thể giả tướng khác.

Ví dụ 1: Một người lãnh đạo đưa ra một quyết định chiến tranh xâm lược hay đàn áp dân chúng. Quyết định đó chính là hệ tư tưởng và mệnh lệnh, nó là một quy trình Quy luật Nhân quả của người ra quyết định. Từ Trụ linh của người đó sẽ phân tách ra đa hạt (vô số hạt) năng lượng tiêu cực. Số hạt của của một quy trình Quy luật Nhân quả đó phụ thuộc vào số lượng người thương vong, tổn thương bởi quyết định đó.

Ví dụ 2: Một thầy giáo đứng trên một lớp học, giảng dạy trong một ngày. Một ngày đó, thầy giáo giảng cho một lớp học với vô số tri thức, phương pháp, giá trị đạo đức. Một ngày giảng là một quy trình nhân quả mà người thầy giáo đã thực hiện. Vì nó là hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp, giá trị đạo đức nên trong Trụ linh thầy giáo đã phân tách ra vô số hạt năng lượng, và mỗi học sinh cũng nhận được vô số hạt năng lượng từ thầy giáo.

Như vậy, việc lan tỏa, truyền dạy về hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp sẽ giúp cho Trụ linh phân tách và liên kết với vô số hạt năng lượng từ 3 vùng (Trụ linh người phân tách, trong Vũ trụ, người đón nhận) trong một quy trình Quy luật Nhân quả. Những hạt năng lượng được tạo ra từ cùng một hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp sẽ liên kết với nhau trong Trụ linh của người phân tách (bởi nó có cùng trí tuệ được truyền tải), dù nó được phân tách ở các quy trình Quy luật Nhân quả khác nhau. Hơn thế nữa, nếu những tri thức đó, hệ tư tưởng đó, phương pháp đó được những người tiếp nhận lại lan tỏa, truyền dạy đến với những người khác thì nó sẽ liên kết theo các cấp tiếp nhận. Khi đó nó không dừng lại ở đa hạt nữa mà chuyển thành liên kết đa cấp đa hạt.

Dạng phân tách, liên kết đa hạt tồn tại ở năm nhóm hạt năng lượng và tồn tại ở cả các siêu hạt.

3.   Dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt

Dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt trong một quy trình nhân quả bao gồm 2 yếu tố, đó là đa cấp và đa hạt. Cụ thể như sau:

  • Dạng phân tách, liên kết đa hạt là trong Trụ linh của Tâm (Tuệ linh) sẽ phân tách ra nhiều hạt năng lượng sau quá trình hoàn chỉnh một quy trình Quy luật Nhân quả; sau đó từ nhiều hạt đó phân tách ra Tuệ linh, ra não bộ nhiều hạt, Vũ trụ nhiều hạt, đối tượng nhiều hạt; các hạt được phân tách ra sẽ liên kết với những hạt gốc đã được phân tách ở Trụ linh.
  • Dạng phân tách, liên kết đa cấp là có nhiều giả tướng con người được đón nhận tri thức, hệ tư tưởng, phương pháp theo thứ tự từ cấp 1 đến cấp 2, 3, 4… Trong đó, cấp 1 là người khai sáng, người khai sinh, xây dựng được hệ tư tưởng, phương pháp, tri thức, ta gọi là A. Cấp 2 là những người được đón nhận tri thức, hệ tư tưởng, phương pháp từ cấp 1 (người A), ta gọi là B, C, D, E… Cấp 3 là những người đón nhận hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp từ những người cấp 2, ta gọi là B’, C’, D’, E’… Cấp 4 là những người được đón nhận tri thức từ những người cấp 3, ta gọi là B”, C”, D”, E”… Và cứ thế cho đến vô số cấp người nhận phía sau.

Như vậy, dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt chính là dạng phân tách, liên kết đa hạt và có sự tiếp nhận cũng như truyền dạy đến những người khác.

Nhận diện dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt trong quy trình Quy luật Nhân quả: Các cấp truyền dạy, lan tỏa hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp cho nhau đều phải đúng với hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp của người khai sinh, khai sáng ra nó.

Trong dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt này, người cấp 1 (người khai sáng, khai sinh ra hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp) truyền dạy cho một đến nhiều người cấp 2 bởi hệ thống tri thức, hệ tư tưởng, phương pháp mà người cấp 1 khai sinh ra. Khi đó từ Trụ linh người cấp 1 sẽ phân tách ra vô số hạt năng lượng (có thể là hạt đơn hoặc siêu hạt) ra Trụ linh, phân tách vô số hạt năng lượng đến những người cấp 2, phân tách vô số hạt năng lượng vào Vũ trụ, sau đó sẽ liên kết giữa vô số hạt năng lượng từ Trụ linh người cấp 1 với năng lượng đã phân tách ở Vũ trụ và những người cấp 2. Khi một hoặc nhiều người cấp 2 truyền dạy những hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp đã học được từ người cấp 1 đến với một hay nhiều người cấp 3, từ Trụ linh người cấp 2 sẽ phân tách ra vô số hạt năng lượng trong Trụ linh, vô số hạt vào Vũ trụ, vô số hạt vào người cấp 3, những hạt đó sẽ liên kết từ Trụ linh người cấp 2 đến với người cấp 1, liên kết đến với những người cấp 3 và cả vùng lưu giữ trong Vũ trụ. Những người cấp 3 lại truyền dạy hệ tư tưởng, phương pháp, tri thức đó đến một hay nhiều người ở cấp 4. Khi đó, Trụ linh của những người cấp 3 sẽ phân tách ra vô số hạt và nó sẽ liên kết với những người cấp 4, liên kết với những người cấp 2 và cấp 1 và vùng lưu giữ trong Vũ trụ. Cứ như vậy, những cấp sau sau khi được học những tri thức, hệ tư tưởng, phương pháp sẽ phân tách vô số hạt năng lượng và nó sẽ liên kết đến với tất cả các cấp trên cho đến người khai sinh, liên kết vào cả Vũ trụ. Do đó, đây gọi là liên kết đa cấp đa hạt.

Mỗi một cấp trong dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt mà truyền dạy cho nhiều con người thì số hạt năng lượng trong Trụ linh được phân tách ra là vô số và sẽ tạo thành mối liên kết đa điểm vĩ đại như liên kết của mạng nhện. Khi đó, người khai sáng là tâm vòng tròn đầu tiên trong cùng của mạng nhện, các cấp tiếp theo sẽ là những vòng tròn bên ngoài. Những vòng tròn bên ngoài sẽ có nhiều điểm, tức là có vô số người được tiếp nhận tri thức, hệ tư tưởng, phương pháp.

Dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt này gồm có cả hạt trong năm nhóm năng lượng và các siêu hạt năng lượng. Có hai trường hợp phân tách, liên kết đa cấp đa hạt:

  • Phân tách, liên kết đa cấp đa hạt theo hướng hoại diệt: đó là khai sinh ra và truyền dạy hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp tiêu cực để hình thành và liên kết các hạt năng lượng xám, đen, đỏ máu. Nếu tạo ra vô số hạt năng lượng tiêu cực chính là đang đánh vỡ cấu trúc bản thể Linh hồn, Tuệ linh, vì đa âm sẽ khiến năng lượng hoại diệt di chuyển vào và làm phân rã Trụ linh, Tuệ Đó là con đường đi đến hoại diệt nhanh nhất. Cụ thể, những người phát động chiến tranh, truyền bá mê tín dị đoan, truyền bá cầu cúng tụng niệm đi ngược Quy luật Nhân quả sẽ là nhanh hoại diệt bởi họ đang tạo ra và đang vận hành dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt tiêu cực.
  • Phân tách, liên kết đa cấp đa hạt theo hướng cấu tạo thành bộ lọc năng lượng bất tử của Tuệ linh: đó là khai sinh ra và truyền dạy hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp tích cực để hình thành và liên kết các hạt năng lượng tích cực, các siêu hạt năng lượng. Nếu tạo ra vô số các hạt năng lượng tích cực và siêu hạt năng lượng chính là con đường cấu tạo Trụ linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng, là bất tử của Tuệ linh. Khi đó Tuệ linh sẽ vận hành được cả năng lượng tiêu cực và năng lượng hoại diệt để cấu tạo vạn vật, Vũ trụ trở nên bền vững. Cụ thể, đó là người khai sáng, những người cùng truyền dạy hệ tư tưởng, phương pháp, tri thức giác ngộ đúng dựa trên cơ chế vận hành của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người.

Chỉ cần thực hiện một quy trình Quy luật Nhân quả của dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt sẽ tạo ra sự phân tách vô số hạt và liên kết với tất cả các cấp. Do đó, nếu là hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp tiêu cực thì phải dừng lại và truy tìm hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp tích cực để thực hiện phân tách, liên kết hạt năng lượng tích cực, thì mới có thể chuyển hóa được những hạt năng lượng tiêu cực đã phân tách và liên kết trước đó.

Như vậy, thông qua cơ chế vận hành các hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả, chúng ta sẽ tường tận, thấu rõ về Quy luật Nhân quả được vận hành ra sao, biết được dạng phân tách, liên kết nào nhanh đạt được thành tựu tu hành nơi nhân gian. Chúng ta sẽ hiểu rằng, chính mỗi người mới vận hành cải tạo Quy luật Nhân quả của chính mình thông qua cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả. Sẽ không có Tuệ linh nào, Ngài nào, Đấng nào, ai đó thay đổi được Quy luật Nhân quả của mọi người.

***************

Rate this post

Bài viết liên quan