Bài 6: Các mức độ chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả của nhân loại

Các mức độ chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả của nhân loại được coi là bản đồ, là con đường soi sáng cho Tuệ linh và con người xác định được phương hướng để chuyển hóa năng lượng trong Trụ linh của Tuệ linh. Con đường đó, bản đồ đó chính là kết quả của việc giải mã về hai Chân lý, về bản chất, cơ chế vận hành, những quy tắc trong Quy luật Nhân quả của nhân loại.

Các mức độ chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả của nhân loại sẽ chỉ rõ cho Tuệ linh và con người thấy con đường hoại diệt nhanh nhất; đồng thời cũng chỉ rõ cho Tuệ linh và con người thấy con đường cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng nhanh nhất, duy nhất.

Chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả của con người chính là thay đổi cấu trúc năng lượng trong Trụ linh. Sự thay đổi đó có thể là từ cấu trúc năng lượng Trụ linh cân bằng thành cấu trúc năng lượng bị phân rã và hoại diệt; có thể là từ cấu trúc năng lượng cân bằng trong Trụ linh chuyển thành cấu trúc bền vững; cũng có thể từ cấu trúc năng lượng trong Trụ linh mất cân bằng chuyển thành cân bằng và bền vững hoặc ngược lại.

Có 3 mức độ chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả của nhân loại:

I.   Mức độ không thiện cũng không ác

Không thiện cũng không ác bao gồm từ ý nghĩ cho tới hành động đều không thiện và không ác, cụ thể như sau:

  • Ý nghĩ không thiện: là trong trí tuệ đã sinh khởi hệ tư tưởng không hành thiện giúp đỡ ai, không giúp đỡ vạn vật và muông thú, chỉ biết quan tâm, bồi đắp cho bản thân và gia đình của mình.
  • Hành động không thiện: là những hành động được thực hiện nhưng không giúp đỡ hay cứu giúp ai, không cứu giúp vạn vật và muông thú, chỉ là hành động để mang lại lợi ích cho bản thân và gia đình mình. Hành động không thiện là biểu hiện và là ngoại hành của hệ tư tưởng không thiện trong ý nghĩ.
  • Ý nghĩ không ác: là trong trí tuệ đã sinh khởi hệ tư tưởng không hành nghiệp ác với bất cứ ai, với muông thú và vạn vật; đó là không gây tổn hại đến lợi ích, sinh mạng, giá trị của người khác, muông thú, vạn vật.
  • Hành động không ác: là những hành động được thực hiện không gây tổn thương hay làm hại đến ai, đến muông thú và vạn vật. Hành động không ác là biểu hiện và là ngoại hành của hệ tư tưởng không ác trong ý nghĩ.

Ý nghĩ và hành động không thiện cũng không ác chính là trạng thái chân tâm ban đầu, nó giống như một cốc nước tinh khiết, giống như một hạt giống được bảo quản. Tuy nhiên, cốc nước tinh khiết hay hạt giống đều do cơ chế phân tách, liên kết vận hành nên nó sẽ cạn và không còn tồn tại là cốc nước nữa, hạt cây thì cũng sẽ chết bởi sự chuyển hóa.

Vô số người lầm tưởng rằng chân tâm trong cảnh giới không thiện cũng không ác là sự an lạc, là sự tự tại của niết bàn. Họ lầm tưởng về với chân tâm là tìm được về với bản tính để thành đạo, họ lại tiếp tục lầm tưởng việc duy trì bản tính chân tâm đó đến cuối đời là họ sẽ đắc đạo. Thực tế, bản tính của chân tâm chính là trạng thái ban đầu của sự sống, nó chưa phải là thành đạo, chưa phải là thành tựu, chưa phải là chuyển hóa. Chỉ có chân tâm mới ở cảnh giới cứu độ, phổ độ, hóa độ mới là an lạc, mới là niết bàn, mới là thành đạo. Chân tâm mới đó phải gắn liền với hành thiện vô lượng.

Trong bản chất của vạn vật, sự việc, hiện tượng thì năng lượng chân tâm chính là sóng điện trung tính, nó có giá trị gắn kết để cân bằng giữa năng lượng âm với năng lượng dương. Năng lượng chân tâm ban đầu sẽ luôn chuyển hóa theo hai hướng: thành năng lượng tiêu cực hoặc thành năng lượng tích cực. Nếu thành năng lượng tiêu cực thì nó sẽ hoại diệt, nếu thành năng lượng tích cực thì nó sẽ tồn tại và nâng cao thành năng lượng chân tâm mới bền vững và rực sáng hơn. Vì bản chất năng lượng chân tâm ban đầu luôn phải chuyển hóa theo hai hướng là tiêu cực hoặc tích cực, nên nếu cứ duy trì trạng thái năng lượng chân tâm ban đầu thì nó cũng sẽ tự tiêu và tự diệt.

Xét theo sứ mệnh tu hành ở nhân gian của nhân loại thì con người phải trải nghiệm hết tất cả các kiếp nạn khổ đau (năng lượng tiêu cực) và an vui hạnh phúc (năng lượng tích cực) thì mới chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, khi đó mới hoàn thành con đường tu hành để trở về nơi cội nguồn, nơi đã ra đi. Con người phải trải nghiệm để gia tăng trí tuệ mới cấu tạo lại được Trụ linh. Nếu không thiện cũng không ác tức là không có trải nghiệm, không gia tăng được trí tuệ để hoàn thành kế hoạch tu hành. Khi đó, con đường tu hành nơi nhân gian là vô lượng, thậm chí là hoại diệt bởi không có năng lượng tốt (năng lượng dương) được phân tách ra để bảo vệ Tuệ linh trước sự tấn công của năng lượng hoại diệt.

Như vậy, mức độ chuyển hóa của không thiện cũng không ác trong Quy luật Nhân quả chính là con đường hoại diệt phía sau. Ban đầu tưởng là an lành tự tại và hạnh phúc nhỏ bên gia đình, trong nội tại, nhưng sự thật đằng sau là sự hoại diệt, hoại diệt bởi sự suy kiệt năng lượng trong Tuệ linh, hoại diệt bởi năng lượng hoại diệt tấn công vào bản thể Tuệ linh mà không có đủ năng lượng dương hóa giải.

II.   Mức độ chuyển hóa của U mê, Hành mê, Phổ mê

Mức độ chuyển hóa của U mê, Hành mê, Phổ mê trong Quy luật Nhân quả của nhân loại chính là từ ý nghĩ kết tinh thành hệ tư tưởng cho đến hành động u mê bám chấp vào các giả tướng để dẫn đến việc ích kỷ về bản thân mà gây tổn thương, tổn hại đến chúng sinh, Tuệ linh, con người, vạn vật, muông thú. Sự u mê từ chính trí tuệ của bản thể con người lan tỏa thành u mê tới chúng sinh. Đỉnh cao của u mê chính là phổ mê, tức là lan tỏa, truyền dạy những u mê ích kỷ lợi mình mà gây tổn hại Tuệ linh, con người và vạn vật, những ích kỷ và u mê tham cầu đi ngược Quy luật Nhân quả.

Mức độ chuyển hóa của U mê, Hành mê, Phổ mê trong

Quy luật Nhân quả của nhân loại sẽ khiến cho Trụ linh trong

Tuệ linh phân tách ra năng lượng tiêu cực (xám, đen, đỏ máu) cho đến khi bị phân rã và bản thể Tuệ linh sẽ hoại diệt.

1.   Mức độ chuyển hóa của U mê

Mức độ chuyển hóa của U mê là mức độ mà trí tuệ của Tuệ linh, của chân tu (con người) U mê, không tin, không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ, không tin Quy luật Nhân quả, không thấu hiểu cội nguồn nhân loại, kế hoạch tu hành nơi nhân gian, từ việc không thấu hiểu dẫn đến trí tuệ bám định vào các giả tướng để ích kỷ về bản thân mình, gia đình mình. Ở mức độ chuyển hóa của U mê thì bản thể con người mới chỉ là tham lam, ích kỷ cho bản thân mình và gia đình mình bởi trí tuệ u mê không thấu hiểu, chưa dẫn đến hành động gây tổn thương đến vạn vật, Tuệ linh và con người, hay nói cách khác là chưa tạo ác nghiệp đối với con người, vạn vật, muông thú.

Ở mức độ chuyển hóa của U mê, Trụ linh trong Tuệ linh sẽ phân tách ra hạt năng lượng màu xám. Hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả màu xám chính là hạt năng lượng sóng điện âm nhẹ, nó quay ngược chiều kim đồng hồ, do bản thể Tuệ linh, chân tu có trí tuệ u mê dẫn đến hành động u mê, để rồi Trụ linh phân tách ra nó.

Mức độ chuyển hóa của U mê tuy có sóng điện âm quay ngược ở mức nhẹ, nhưng nó lại là nền móng vững chắc khiến cho Tuệ linh và chân tu chuyển hóa thành mức độ nguy hiểm hơn là Hành mê và Phổ mê.

Mức độ U mê là trí tuệ bám định vào giả tướng sinh, lão, bệnh, tử, sinh ly, tử biệt, có, không có, yêu thương, thù ghét, cầu được, cầu không được, có trí tuệ, không có trí tuệ, hành và không hành; để từ đó không tìm hiểu, nghiên cứu thấu hiểu chân tướng của các giả tướng đó, không thấu hiểu duyên nghiệp, không thấu hiểu do duyên mà có các giả tướng và cũng do duyên mà các giả tướng hoại diệt, nên Tuệ linh và chân tu chỉ biết hưởng thụ ích kỷ, tìm mọi cách để được hưởng thụ và cầu sự thỏa mãn từ các giả tướng; từ u mê mà dẫn tới tham lam cho thân tướng được hưởng thụ các giả tướng mà không biết giúp đỡ hay sẻ chia tới mọi người.

Như vậy, ở mức độ chuyển hóa của U mê mới chỉ là ý nghĩ và hành động ích kỷ cho bản thân mình mà chưa hành động gây tổn thương tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Ở mức độ này, Trụ linh của Tuệ linh đã sản sinh ra những hạt năng lượng tiêu cực màu xám. Nếu trong Trụ linh có những hạt năng lượng tiêu cực đạt đến mức độ nhiều sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt di chuyển vào và kiểm soát toàn bộ hành vi, ý nghĩ của Tuệ linh. Khi đó, việc Tuệ linh và chân tu chuyển sang mức Hành mê và Phổ mê là rất nhanh và hết sức nguy hiểm.

Mức độ chuyển hóa của U mê trong Quy luật Nhân quả tuy là tiêu cực ở mức nhẹ nhất, nhưng nó là nền móng vững chắc cho những Hành mê và Phổ mê. Nó là nền móng cho sự tạo ra vô số ác nghiệp và dẫn đến sự hoại diệt của Tuệ linh mà bản thể Tuệ linh và chân tu khó mà nhận diện được.

2.   Mức độ chuyển hóa của Hành mê

Mức độ chuyển hóa của Hành mê là trí tuệ đã chìm trong mức độ của U mê và đã chuyển hóa thành hành động gây tổn hại đến lợi ích, giá trị, tính mạng của vạn vật, con người, Tuệ linh và muông thú.

Hành mê là trí tuệ không thấu hiểu hai Chân lý, không tin Quy luật Nhân quả, không hiểu cội nguồn tu hành. Điều đó dẫn đến trí tuệ u mê bám định vào các giả tướng như: sinh, lão, bệnh, tử, sinh ly, tử biệt, có, không có, yêu thương, thù ghét, cầu được, cầu không được, có trí tuệ, không có trí tuệ, hành động, không hành động, để từ đó tham lam cho thân tướng được hưởng thụ, bồi đắp, chìm đắm, mong cầu các giả tướng. Khi trí tuệ u mê tham lam cho thân tướng, con người sẽ có những hành động nhằm thỏa mãn cho thân tướng mà gây tổn hại đến sinh mệnh, giá trị, lợi ích của con người, Tuệ linh, vạn vật và muông thú.

Hành mê sẽ khiến cho Trụ linh trong Tuệ linh phân tách ra nhiều hạt năng lượng tiêu cực màu đen, màu đỏ máu có sóng điện âm và quay ngược chiều kim đồng hồ rất mạnh. Khi đó, Trụ linh sẽ bị đa âm rất nhanh, hiện tượng phóng xạ năng lượng âm diễn ra mạnh, năng lượng hoại diệt di chuyển rất mạnh và ồ ạt vào Trụ linh. Kết quả là Tuệ linh sẽ mất đi ý thức và không kiểm soát được quá trình hành động tiêu cực gây hại tới vạn vật, chúng sinh, Tuệ linh và con người.

Hành mê chính là những hành động vi phạm vào những quy tắc không được phép vi phạm trong Quy luật Nhân quả. Hay nói theo cách khác thì con người vi phạm vào các quy tắc không được vi phạm trong Quy luật Nhân quả chính là quá trình Hành mê.

Khi con người đang ở mức Hành mê, nó sẽ khiến cho con người đó dễ dàng chuyển hóa thành Phổ mê, hoặc do Hành mê nhiều mà Tuệ linh bị phân rã và hoại diệt vĩnh viễn.

3.   Mức độ chuyển hóa của Phổ mê

Mức độ chuyển hóa của Phổ mê trong Quy luật Nhân quả là mức độ nguy hiểm nhất, nhanh nhất khiến cho Trụ linh và Tuệ linh bị phân rã hoàn toàn. Đó là cái chết vĩnh viễn cho bản thể Tuệ linh.

Phổ mê là sự U mê của trí tuệ con người đã chuyển hóa thành đại hệ tư tưởng U mê và truyền dạy, lan tỏa đại hệ tư tưởng U mê đó đến với toàn bộ nhân loại.

Đại hệ tư tưởng U mê của Phổ mê chính là phủ định đi Quy luật Nhân quả, thậm chí là vẫn rao giảng về nhân quả nhưng hành động lại đi ngược Quy luật nhân quả; đó là truyền bá đại hệ tư tưởng cầu xin, tụng niệm, nghi lễ, đàn lễ hóa giải nghiệp ác, được trở về các cõi trời nhiệm màu, được an lạc, được bình an, cầu được tài lộc công danh…; đó là đại hệ tư tưởng mê tín dị đoan. Đại hệ tư tưởng U mê còn là những tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tôn giáo cực đoan, tư tưởng lợi ích nhóm…

Từ đại hệ tư tưởng U mê, con người sẽ lan tỏa, truyền dạy, mị dân, huyễn hoặc huyền bí về các hiện tượng siêu nhiên, về các Đấng, Phật, Thần thánh, để trục lợi về lợi ích cá nhân cho đến lợi ích nhóm. Đó chính là Hành mê gây tổn hại đến sinh mạng, giá trị, lợi ích của Tuệ linh, con người và vạn vật.

Khi con người đang ở mức độ Phổ mê trong Quy luật Nhân quả thì từ Trụ linh người đó sẽ phân tách ra đa hạt, đa cấp hạt năng lượng đỏ máu và đen, xám lưu giữ trong Trụ linh họ, phân tách vào Vũ trụ, vào đối tượng tiếp nhận. Năng lượng hoại diệt sẽ di chuyển vào những con người đón nhận và những người truyền dạy Phổ mê. Họ sẽ bị năng lượng hoại diệt chi phối, phân rã, kiểm soát đến khi hoại diệt toàn bộ

Tuệ linh. Khi họ đang trong quá trình Phổ mê, họ sẽ không nhận thức được sự u mê cũng như hành động của họ.

Phổ mê bao gồm hệ tư tưởng U mê và Hành động vi phạm các quy tắc không được phép vi phạm trong bốn hình tướng Đạo và khiến cho con người không thực hiện được các quy tắc phải thực hiện trong bốn hình tướng Đạo. Họ vi phạm giá trị đạo đức, rồi chìm đắm trong nghiệp ác và luân hồi trong vô lượng để mà hoại diệt.

Người Phổ mê không những khiến họ nhanh hoại diệt bản thể Tuệ linh của chính họ mà còn khiến cho vô số chúng sinh, Tuệ linh, con người chìm đắm theo và cũng tiến đến với sự hoại diệt bản thể Tuệ linh nhanh hơn bao giờ hết.

Như vậy, trong 3 mức độ chuyển hóa năng lượng tiêu cực trong Quy luật Nhân quả thì Phổ mê là mức độ tạo nghiệp ác nhanh nhất, nhiều nhất. Người Phổ mê không những tạo ác nghiệp mà họ còn lan tỏa phương pháp, tri thức, hệ tư tưởng tạo ác nghiệp đến với vô số chúng sinh, Tuệ linh và con người. Phổ mê là kết tinh và nâng cao từ nền móng U mê với sự hung hăng, manh động của Hành mê.

Tuy nhiên, dù Tuệ linh hay con người đang ở mức Phổ mê, tức đang ở mức độ sắp hoại diệt, đều có thể được cứu và chuyển hóa lại Trụ linh trở về cân bằng. Muốn làm được điều này, Tuệ linh và chân tu đó phải nghiên cứu, thấu hiểu hai Chân lý, cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả để thực hành các mức độ chuyển hóa thành năng lượng tích cực cho Trụ linh. Không có gì là không thể làm được, chỉ cần sự nghiêm túc nghiên cứu và phân tích hai Chân lý với cơ chế vận hành của nó sẽ giúp cho mỗi con người phá được u mê để đi theo con đường giác ngộ.

III.   Mức độ chuyển hóa của Cứu độ, Phổ độ, Hóa độ

Mức độ Cứu độ, Phổ độ, Hóa độ trong Quy luật Nhân quả của nhân loại chính là từ ý nghĩ kết tinh thành đại hệ tư tưởng cho đến hành động, đó là đại hệ tư tưởng và hành động giác ngộ. Tức là trí tuệ của bản thể Tuệ linh và con người có niềm tin cho đến thấu triệt để hai Chân lý, Quy luật Nhân quả, kế hoạch tu hành, và con đường luyện thành bộ lọc năng lượng trong Trụ linh. Mức độ Cứu độ, Phổ độ, hóa độ là đại hệ tư tưởng và hành động luôn vì lợi ích của Tuệ linh và con người, vạn vật, muông thú mà không màng đến lợi ích của bản thể mình và gia đình mình.

Mức độ chuyển hóa của Cứu độ, Phổ độ, Hóa độ trong Quy luật Nhân quả sẽ giúp cho Trụ linh phân tách ra những hạt năng lượng tích cực mang sóng điện dương và quay thuận. Đó là năng lượng phát triển màu xanh lá, năng lượng lan tỏa màu đỏ lửa, năng lượng đoàn kết màu vàng và năng lượng chân tâm mới có màu trắng sáng chói. Ngoài ra khi thực hiện ở mức độ Hóa độ sẽ giúp cho Trụ linh phân tách ra các siêu hạt năng lượng. Các mức độ chuyển hóa năng lượng tích cực này chính là con đường, là hướng đi để con người đi theo và tới đích của việc hóa giải hết tất cả năng lượng nghiệp ác và gia tăng vô lượng hạt năng lượng phước báo (vô lượng hạt năng lượng mang sóng điện dương và siêu hạt).

1.   Mức độ chuyển hóa của Cứu độ

Mức độ chuyển hóa của Cứu độ chính là kết tinh của ý nghĩ (hệ tư tưởng) và hành động cứu giúp mọi người, Tuệ linh, vạn vật, muông thú mà không ích kỷ vì bản thân mình.

Để có được mức độ Cứu độ thì Tuệ linh, con người đã và đang trên hành trình tìm hiểu, có niềm tin và thấu hiểu về hai Chân lý, về Quy luật Nhân quả để dần diệt đi u mê và không còn bám chấp vào giả tướng. Tuy nhiên do vẫn chưa phải là giác ngộ viên mãn nên vẫn còn những bám chấp.

Cứu độ luôn luôn còn bám chấp vào giả tướng yêu thương, thương cảm, thậm chí là bám chấp vào nhiều giả tướng khác nữa, nên mức độ Cứu độ không phải là mức độ ưu việt để cứu giúp Tuệ linh, con người, vạn vật, chúng sinh, bởi cứu mà chẳng phải là cứu, độ mà chẳng phải là độ. Khi còn bám chấp thì Tuệ linh và con người đó chưa thể giác ngộ triệt để về Chân lý Vạn vật, cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả và bản chất của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ; do đó dẫn đến việc Cứu độ giống như một hạt mưa rơi vào sa mạc cát và nắng. Giống như thấy một người đói nghèo, ta thương cảm và giúp đỡ họ một chút tiền, một vài bữa ăn vậy, tất nhiên là hành động này sẽ sinh ra các hạt năng lượng tích cực trong Trụ linh, nhưng nó không phải là phương pháp hữu hiệu để giúp cho họ thoát nghèo. Nếu hiểu bản chất thì người nghèo cần phương pháp thoát nghèo mới là cứu độ thực sự, phương pháp đó chính là Phổ độ.

Những người, Tuệ linh thực hiện mức độ Cứu độ, sẽ giúp cho Trụ linh trong Tuệ linh phân tách ra những hạt năng lượng đơn màu vàng, màu đỏ lửa, màu xanh lá và màu chân tâm trắng chói sáng. Điều này sẽ thúc đẩy Trụ linh của Tuệ linh trau dồi từng bước chậm chạp cho quá trình cải tạo Trụ linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng. Vì Cứu độ là cứu giúp con người, Tuệ linh, muông thú, vạn vật khổ đau bởi tình thương (sự bám chấp vào tình thương), trong khi đó sức lực, tài lực, trí lực có hạn, không thể cứu giúp được nhiều người, nhiều muông thú, vạn vật, nên Cứu độ mang tính hạn chế và không có tính lan tỏa trí tuệ cũng như phương pháp.

Thực hiện Cứu độ chính là không vi phạm vào các quy tắc không được vi phạm trong Quy luật Nhân quả của bốn hình tướng Đạo, chính là đang thực hiện các quy tắc phải thực hiện được trong Quy luật Nhân quả của bốn hình tướng Đạo.

Như vậy, mức độ chuyển hóa Trụ linh thông qua Cứu độ là rất tốt, nó giúp cho Tuệ linh và chân tu trau dồi trí tuệ giác ngộ, trau dồi thiện tâm và sự cống hiến vô lượng. Trụ linh sẽ phân tách ra được những hạt năng lượng đơn tích cực, những năng lượng tốt mang sóng điện dương quay thuận đó sẽ giúp Tuệ linh không bị năng lượng hoại diệt di chuyển vào phân rã Tuệ linh. Tuy nhiên Cứu độ là mức độ thấp, và chậm trên con đường cải tạo Trụ linh, nếu đi theo con đường Cứu độ thì cần vô số kiếp tu hành mới hoàn thành nhiệm vụ tu hành nơi nhân gian.

2.   Mức độ chuyển hóa của Phổ độ

Mức độ chuyển hóa của Phổ độ trong Quy luật Nhân quả chính là kết tinh của đại hệ tư tưởng giác ngộ và truyền dạy, lan tỏa đại hệ tư tưởng giác ngộ đó đến với Tuệ linh và con người. Đó là đại hệ tư tưởng về sự giác ngộ hai Chân lý, Quy luật Nhân quả và cơ chế vận hành, con đường, phương pháp đắc bộ lọc năng lượng trong Trụ linh.

Phổ độ là quá trình con người đang tiếp nhận, nghiên cứu, trau dồi trải nghiệm để thấu đạt đến gần triệt để về hai Chân lý, cơ chế vận hành, con đường, phương pháp đắc đạo, đắc bộ lọc năng lượng. Như vậy, Phổ độ là quá trình tiếp nhận và lan tỏa để tiến đến sự thấu hiểu, giác ngộ triệt để về đại hệ tư tưởng tích cực.

Phổ độ ngược với Phổ mê, Phổ độ chính là tiếp nhận và lan tỏa, truyền dạy đại hệ tư tưởng hy sinh lợi ích của mình để mang lại lợi ích cho vạn vật, muông thú, Tuệ linh và con người. Đó là sự hy sinh lớn lao và toàn diện về trí tuệ, thân xác và tâm lực cho việc lan tỏa, chỉ dẫn, giúp đỡ nhân loại, Tuệ linh thấu hiểu và hành theo.

Phổ độ có tính lan tỏa rộng lớn, do đó mức độ chuyển hóa của phổ độ phải là gắn liền với việc lan tỏa Quy luật Nhân quả, hai Chân lý, cơ chế vận hành, học thuyết, bản chất, con đường, phương pháp cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Thực hiện điều này là cực kỳ gian truân và hy sinh vì Tuệ linh, con người và vạn vật.

Thực hiện ở mức Phổ độ sẽ giúp Trụ linh trong Tuệ linh phân tách ra đa cấp, đa hạt năng lượng đơn, chủ yếu là năng lượng chân tâm mới, năng lượng phát triển, năng lượng đoàn kết, năng lượng lan tỏa. Nếu trong Trụ linh có được bộ lọc năng lượng thì việc Phổ độ của người đó sẽ phân tách ra các siêu hạt năng lượng như siêu hạt màu vàng óng ánh, siêu hạt xanh ngọc lưu ly và các siêu hạt năng lượng khác.

Mức độ chuyển hóa của Phổ độ trong Quy luật Nhân quả sẽ giúp Trụ linh và Tuệ linh chuyển hóa được năng lượng tiêu cực sóng điện âm và năng lượng hoại diệt thành vô số các hạt năng lượng tích cực và siêu năng lượng trong điều kiện riêng. Phổ độ sẽ làm cho Tuệ linh có trí tuệ giác ngộ sáng suốt và kiểm soát cũng như vận hành được tất cả các nhóm năng lượng trong Vũ trụ và cả năng lượng hoại diệt.

Phổ độ có giá trị rất lớn và kỳ diệu trong việc cấu tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhanh nhất. Bởi phổ độ là lan tỏa đại hệ tư tưởng tích cực nên Trụ linh sẽ phân tách ra vô lượng hạt năng lượng tốt để hóa giải hết vô lượng hạt năng lượng nghiệp ác đã tạo ra nếu có. Đại hệ tư tưởng tích cực chính là đại hệ trí tuệ giác ngộ có vô lượng mã sóng rung động, nó đủ khả năng rung động và liên kết năng lượng tiêu cực đã tạo, hấp thụ về để Trụ linh làm nhiệm vụ chuyển hóa.

Phổ độ mới là cứu độ thực sự, bởi vì để thực hiện được mức độ phổ độ thì trí tuệ không còn sự bám chấp vào bất cứ giả tướng nào. Lúc đó người thực hiện phổ độ sẽ hy sinh Thân – Tâm – Trí mình để lan tỏa và truyền dạy các phương pháp, đại hệ tư tưởng giác ngộ, con đường giúp cho Tuệ linh và con người học tập theo để tự cứu mình, cứu Tuệ linh mình và cứu giúp mọi người, Tuệ linh khác. Đó mới là cứu độ thực sự, cứu độ được bản thể Tuệ linh và cả thân tướng. Cứu độ đơn thuần là chỉ cứu về thân tướng mà chưa có phương pháp, đại hệ tư tưởng, con đường để chỉ dẫn cho họ cứu Tuệ linh họ nên Cứu độ mà không phải là cứu độ. Bởi thân tướng được gọi là chân tu, là môi trường cho Tuệ linh hóa thân vào để tu hành, nên việc cứu thân tướng là cứu cái ngọn, cái lá chứ chưa phải là cứu tận gốc. Cứu tận gốc chính là Phổ độ để Tuệ linh được cứu và cải tạo thành bộ lọc năng lượng trong Trụ linh.

Như vậy, Phổ độ là cảnh giới cao, là con đường gột rửa hết thảy nghiệp ác nhanh nhất; cũng là con đường nhanh nhất để đắc Đạo Giác Ngộ, đắc bộ lọc năng lượng; là con đường đắc niết bàn cực lạc duy nhất. Đặc biệt, việc Phổ độ và trải nghiệm trên hành trình phổ độ sẽ giúp trí tuệ đạt đến sự giác ngộ triệt để về hai Chân lý, về đại hệ tư tưởng tích cực. Khi đó, Tuệ linh sẽ có bộ lọc năng lượng trong Trụ linh. Khi có bộ lọc năng lượng chính là thời điểm Tuệ linh và chân tu đó thực hiện ở mức hóa độ.

3.   Mức độ chuyển hóa của Hóa độ

Hóa độ là sự chuyển hóa, thay đổi cấu trúc bản thể Trụ linh của Tuệ linh, con người, linh hồn muông thú trở nên bền vững và thành bộ lọc năng lượng thông qua việc Phổ độ.

Tuệ linh, chân tu thực hiện được mức độ Hóa độ chính là vị Tuệ linh, chân tu đầu tiên đã giác ngộ tận cùng hai Chân lý, xây dựng hai Chân lý thành đại hệ tư tưởng giác ngộ, phương pháp, con đường siêu việt để cấu tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, để đắc Đạo Giác Ngộ. Tiếp đến là những Tuệ linh, chân tu sau khi tiếp nhận đại hệ tư tưởng giác ngộ mà trải qua quá trình Phổ độ đạt được đến sự trau dồi đủ mã sóng trí tuệ trong Trụ linh sẽ đắc được bộ lọc năng lượng, cũng là lúc Tuệ linh, chân tu đó cũng chuyển hóa thành mức độ Hóa độ.

Mức độ Hóa độ chỉ dành cho Tuệ linh, chân tu đã đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh. Khi đó, Tuệ linh sẽ phân tách ra các siêu hạt năng lượng đa cấp, đa hạt vô lượng, sẽ vận hành được tất cả năng lượng trong Vũ trụ và năng lượng hoại diệt để đảm bảo sự hòa bình, cân bằng trong sự phát triển bền vững cho Vũ trụ, Tuệ linh và con người.

Một người thực hiện mức độ Hóa độ sẽ phải làm cả nhiệm vụ Cứu độ và Phổ độ tới hết thảy chúng sinh, Tuệ linh, con người, muông thú, vạn vật, năng lượng tiêu cực, năng lượng hoại diệt trong sự không phân biệt.

Vì mức độ Hóa độ là của những Tuệ linh và chân tu đã đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh nên họ không còn phải luân hồi trong nhân gian. Họ đã hoàn thành giác ngộ viên mãn nên họ chỉ hóa thân xuống nhân gian nếu họ phát nguyện xuống để hóa độ, dẫn dắt chúng sinh, Tuệ linh, con người đắc được như họ.

Như vậy, trong 3 mức độ chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả thì mức độ không thiện cũng không ác là con đường tự diệt trong lâu dài. Mức độ U mê, Hành mê, Phổ mê là con đường hoại diệt nhanh, trong đó Phổ mê là nhanh hoại diệt Tuệ linh nhất. Mức độ Cứu độ, Phổ độ, Hóa độ là con đường để gột rửa hết nghiệp ác, con đường giác ngộ viên mãn, con đường cấu tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng nhanh nhất. Đặc biệt, hóa độ là con đường chuyển hóa Trụ linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng kỳ diệu nhất. Tất nhiên, không dễ gì để có nhân duyên được sinh ra cùng thời với Tuệ linh có bộ lọc năng lượng hóa thân xuống nhân gian, bởi tất cả vẫn là kế hoạch và sự trải nghiệm cần đủ kiếp nạn khổ đau của mỗi bản thể Tuệ linh.

Các mức độ chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả đã cho nhân loại thấy một sự thật, một bản đồ chỉ dẫn chi tiết con đường bị hoại diệt, con đường lầm tưởng là an lạc nhưng lại là con đường hoại diệt phía sau; đặc biệt là con đường với ánh sáng rực rỡ của hai Chân lý để đắc được bộ lọc năng lượng, Tuệ linh và chân tu sẽ phải thực hiện Cứu độ, Phổ độ để đạt đến mức độ cao nhất là Hóa độ. Chỉ khi chuyển hóa được đến mức độ Hóa độ mới là hoàn thành sứ mệnh tu hành nơi nhân gian. Đó mới là niết bàn cực lạc, là bậc đại giác ngộ viên mãn.

***************

Rate this post

Bài viết liên quan