Bài 7: Những câu hỏi về Quy luật Nhân quả đến với Nhật Sư Hoàn Đạo

Câu hỏi 1:

– Thưa Thầy! Vợ tôi đã mất nhiều năm rồi, con cái vẫn đang còn nhỏ, sống cảnh nuôi con một mình, nhiều khi tôi thấy buồn lắm. Tôi đã nhiều lần muốn xây dựng gia đình khi có những cô gái thương cảm hoàn cảnh của tôi. Tôi có được biết đến giáo lý và hai Chân lý của Thầy. Vậy, nay tôi mạnh dạn xin hỏi Thầy tôi nên làm như thế nào về việc lấy vợ để không bị vi phạm nhân quả?

+ Trả lời:

Cuộc sống là bể khổ nơi nhân gian do bản thể Tuệ linh đã nguyện như vậy. Việc anh mất vợ sớm cũng là nguyện lực của chính bản thể Tuệ linh anh và người vợ của anh. Đó là khổ đau, kiếp nạn dồn nén vào anh, đó là áp lực của một mình nuôi con, là áp lực của sự cô đơn sớm tối không có tri kỷ bên cạnh. Đặc biệt, nó là chướng ngại và là ngã ba đường cho anh lựa chọn trong hành trình kiếp người còn lại nơi nhân gian này. Tại ngã ba đường, anh tiếp tục đi thẳng để cô đơn và toàn tâm, toàn tình yêu thương nuôi con cái trưởng thành đến khi anh già và thoát tục cõi trần nhân gian này; hoặc con đường rẽ cho anh lựa chọn, đó là tìm một cô gái để xây dựng gia đình mới. Tôi sẽ phân tích kỹ cho anh rõ về hai con đường này:

Con đường anh lấy vợ lần nữa, đây là con đường không đưa đến sự giác ngộ, vì anh còn bám chấp vào tình yêu, vào sắc dục, vào thỏa mãn mà khiến cho con cái thiếu đi tình cảm, thiếu đi sự quan tâm từ anh. Trên con đường này, nếu anh lấy một người con gái độc thân (chưa có chồng, hoặc đã ly hôn chồng về mặt pháp luật) thì anh không vi phạm những quy tắc không được vi phạm trong Quy luật Nhân quả, nhưng tất nhiên là chưa đạt sự giác ngộ. Nếu anh lấy cô gái đã mất chồng (góa chồng) hoặc người đang có chồng mà chưa ly hôn thì anh đã vi phạm quy tắc không được phép vi phạm trong Quy luật Nhân quả.

Con đường anh ở vậy nuôi con, đây là con đường khó khăn, cô đơn, đơn độc và sự hy sinh tất cả vì con cái. Đó là sự hy sinh để buông đi sắc dục ái tình. Nếu đi con đường này, anh đã giác ngộ và hoàn thành kế hoạch kiếp này về nội dung kiếp nạn vợ chồng. Con cái sẽ tri ân anh vì sự hy sinh to lớn của anh, đồng thời khi con cái trưởng thành, anh có thời gian thực hành phổ độ để chuyển hóa Trụ linh. Tuệ linh anh sẽ trau dồi được tình yêu thương con cái, không màng ái tình và vượt qua được kiếp nạn, chuyển hóa được Trụ linh trở nên bền vững. Sự hy sinh này chính là điều đã làm được trong những điều phải làm của Quy luật Nhân quả.

– Xin hỏi Thầy là tại sao lấy người phụ nữ góa chồng lại là vi phạm Quy luật Nhân quả?

+ Khi người phụ nữ góa chồng, trên pháp lý của luật dương gian quốc gia thì họ vẫn là dâu con của dòng họ nhà chồng, trong gia tiên đường âm thì họ vẫn là dâu con của nhà chồng. Việc lấy người góa chồng phải đảm bảo điều kiện là người phụ nữ đó hoàn thành luật dương gian của quốc gia đó, đó là phải xin phép chính quyền để được đăng ký kết hôn với anh, đồng thời xin phép nhà chồng cho phép xuất giá. Khi hai người chưa làm xong thủ tục pháp luật và xin phép gia đình nhà chồng của cô ấy mà có phát sinh quan hệ sắc dục thì chính là đã vi phạm Quy luật Nhân quả, đó là thông dâm. Vợ anh cũng đã mất nhưng anh và vợ vẫn là vợ chồng cả về âm và dương, do đó anh phải xin gia tiên và cả pháp luật. Đó mới là danh chính ngôn thuận cho cuộc hôn nhân mới không vi phạm Quy luật Nhân quả.

Như vậy, câu hỏi của anh có hai con đường để lựa chọn. Anh chọn con đường rẽ thì nó không phải là con đường giác ngộ. Trên con đường đó nếu anh không tuân thủ pháp luật thì anh dễ vi phạm Quy luật Nhân quả. Nếu anh chọn con đường đi thẳng thì đó là con đường phải hy sinh, nhưng nó là giác ngộ. Khi anh chọn con đường giác ngộ thì kiếp sau nếu có ở nhân gian, anh không còn khổ đau của vợ chồng nữa. Nếu anh chọn con đường rẽ lấy vợ lần nữa thì kiếp sau anh vẫn còn khổ đau kiếp nạn của vợ chồng. Đó là sự lựa chọn của anh, tôi chỉ phân tích theo Quy luật Nhân quả bởi cơ chế vận hành của nó.

Câu hỏi 2:

  • Thưa Thầy! Tôi đã đọc giáo lý của Thầy, nhất là bài Đạo Vô Đạo, trong đó nói rất nhiều về những điều không được vi phạm và những điều phải làm được trong bốn hình tướng Đạo. Hiện tại tôi và chồng đã ly hôn với nhau, nguyên nhân là anh ấy không chung thuỷ, anh ấy ham mê sắc dục, có nhiều cô gái bên ngoài và thậm chí có cả con riêng. Tôi đã tha thứ và mong anh trở về bên gia đình, nhưng anh ấy không chịu và vẫn đam mê sắc dục bên ngoài, chính vì thế mà chúng tôi đã ly hôn. Tôi đang băn khoăn và muốn hỏi Thầy hai điều sau khi tôi nghiên cứu giáo lý của Thầy: 1 – Chúng tôi ly hôn như thế thì vi phạm Quy luật Nhân quả như thế nào? 2 – Giờ anh ấy cũng già rồi, không lấy ai sau khi chúng tôi ly hôn. Nếu anh ấy quay lại, tôi đón nhận và chúng tôi đoàn tụ lại thành một gia đình thì như thế nào?

+ Trả lời:

Không phải tự nhiên mà anh chị thành một cặp vợ chồng, không phải tự nhiên mà có khổ đau và kiếp nạn, cũng như không phải tự nhiên mà có ly hôn. Tất cả được bắt nguồn từ nguyện lực của Tuệ linh chị và anh ấy, và phản chiếu nghiệp lực của cả hai người ở kiếp trước. Nghiệp và nguyện tại kiếp này để hai người trải nghiệm kiếp nạn đó, từ đó tìm ra được sự hóa giải. Việc hai người ly hôn chính là sự thất bại trên hành trình vượt qua kiếp nạn.

  • Vấn đề ly hôn và cuộc sống của anh chị như sau: nếu ai là người ngoại tình, thông dâm, tà dâm thì người đó vi phạm Quy luật Nhân quả, khi chết sẽ phải đọa vào cửa ngục để chuyển hóa Tâm, kiếp sau sẽ bị chồng hoặc vợ cũng không chung thuỷ. Trong vấn đề ly hôn của anh chị thì anh ấy đã vi phạm Quy luật Nhân quả vì anh ấy thông dâm, tà dâm. Chị không vi phạm Quy luật Nhân quả nhưng chị chưa giác ngộ được, vì chị chưa thấu hiểu anh ấy, chưa dùng tình yêu và trí tuệ để cảm hóa, chinh phục cho anh ấy không ham muốn sắc dục bên ngoài. Vì chị chưa giác ngộ được khổ đau kiếp nạn của vợ chồng kiếp này, nên kiếp sau chị vẫn gặp phải một người chồng giống chồng chị ở kiếp này, có lẽ khổ đau sẽ nhẹ hơn. Mục đích để chị hoàn thành sự giác ngộ nội dung vợ chồng.
  • Tuổi già là lúc mỗi người sẽ thấy cô quạnh, sẽ nhận thức được những điều đúng sai trong một kiếp người, anh ấy cũng vậy. Nếu anh ấy quay lại, nếu chị mở rộng tình yêu thương và vị tha để đón nhận anh ấy thì đó là sự giác ngộ chị đã đạt được. Như vậy là chị đã hoàn thành kiếp nạn này với trí tuệ và những năng lượng của thiện tâm và vị tha. Còn anh ấy, vì những nghiệp ác đã tạo ra nên kiếp sau anh ấy vẫn phải sống trong cảnh bị bội bạc trong hôn nhân, nó giống với những gì anh ấy đã làm với chị. Còn chị sẽ có cuộc hôn nhân hạnh phúc viên mãn ở kiếp sau là do chị đã hy sinh lớn trong hôn nhân và gia đình ở kiếp này.
  • Cảm ơn Thầy đã phân tích và chỉ bảo. Tôi sẽ đón nhận anh ấy quay về và tôi sẽ chủ động nói chuyện với anh ấy.

Câu hỏi 3:

  • Thưa Thầy! Thầy cho em hỏi tại sao nhân quả lại kéo dài từ kiếp trước tới kiếp sau và thậm chí là nhiều kiếp mà vẫn chưa gột được ác nghiệp?

+ Trả lời:

Trước tiên em phải hiểu là Quy luật Nhân quả được kết tinh từ Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, cơ chế vận hành chính là cơ chế phân tách, liên kết dây của hạt năng lượng. Trong hạt năng lượng sẽ lưu giữ hết tất cả hình ảnh, nội dung, ý nghĩ từ quá trình sinh khởi tới gieo duyên, hành động và đón nhận kết quả, đó chính là phân tách và liên kết hạt năng lượng. Tiếp đến, môi trường ở Trái đất với con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh, là môi trường cho dạng sống Tuệ linh tu hành trong khổ đau kiếp nạn để cải tạo bản thể Tuệ linh họ có được bộ lọc năng lượng. Từ hai điều trên mà tạo thành Quy luật Nhân quả, Quy luật Nhân quả được vận hành theo cơ chế rõ ràng và được trợ giúp từ Hội đồng Tuệ linh trong việc gieo duyên, sắp xếp để giúp cho con người tương tác và đón nhận thành quả trong mối quan hệ của Quy luật Nhân quả thật tinh tế nhất.

Việc một hành trình của Quy luật Nhân quả có thể diễn biến trong một ngày, một tháng, một năm, một kiếp người, cho đến kiếp sau hoặc nhiều kiếp sau nữa, điều này còn phụ thuộc vào quá trình phân tách ra nhiều hay ít hạt năng lượng, nghiệp ác nhiều hay ít, mức độ tổn thương đến mọi người lớn hay nhỏ. Mỗi một kiếp người đều được lập trình bởi cây Nhân quả với số lượng kiếp nạn tương ứng theo khả năng mà Tuệ linh có thể đón nhận và xử lý được. Chính vì thế Quy luật Nhân quả sẽ được kéo giãn sang kiếp sau hoặc nhiều kiếp, để đảm bảo tính phân bổ đủ để Tuệ linh có sức lực đón nhận và chuyển hóa nghiệp ác đó.

Đặc biệt, để đón nhận được nghiệp ác hay phước báo về thì đòi hỏi con người phải có sóng rung động trùng với nghiệp ác hoặc phước báo trong quá khứ. Khi tương tác với con người và muông thú cũng như vạn vật mà tạo ra sự rung động cùng ý nghĩ mới kích hoạt cơ chế liên kết hạt năng lượng từ Trụ linh người đó với hạt năng lượng được lưu giữ trong Vũ trụ và đối tượng, khi đó mới là trả nghiệp hay là đón nhận kết quả. Sự tương tác để rung động sẽ được Hội đồng Tuệ linh gieo duyên sắp đặt cho cây Nhân quả mỗi người.

Bởi vì tu hành phải là tu trong nhiều kiếp, nên các kiếp nạn khổ đau sẽ được phân bổ hợp lý giống như các ngã ba cành cây trong một cây cổ thụ vậy. Con người phải từng bước đi qua từng ngã ba các cành cây để lấy thành tựu là quả chín ở cành nào đó, nó là giác ngộ. Do đó sự vi diệu của cây Nhân quả nằm ở chỗ có Hội đồng Tuệ linh hỗ trợ gieo duyên dựa trên cơ chế phân tách, liên kết dây của hạt năng lượng.

  • Em cảm ơn Thầy rất nhiều.

Câu hỏi 4:

  • Thầy ơi! Trước khi biết tới giáo lý và hai Chân lý của Thầy, em đã tạo rất nhiều nghiệp, em đã hành nghề mê tín, lấy tâm linh để đưa mọi người vào con đường cầu cúng, lễ bái, lập đàn lễ xin lộc, xin danh, giải trừ tai ương. Khi càng lún sâu vào con đường này, gia đình em càng ngày càng khổ đau, bệnh tật, gia đạo bất hòa giữa vợ chồng và con cái hư hỏng, em thì đau ốm liên miên. Giờ em đã quyết không hành nghề u mê đó nữa. Em mới học và nghiên cứu giáo lý của Thầy chưa được nhiều và hiểu biết còn hạn chế. Em vẫn rất lo lắng về việc liệu kiếp này em có gột được hết nghiệp ác mà em đã tạo ra không? Vì em thấy những điều em làm trước đó, những người mà em dùng tâm linh giải quyết chỉ khiến cho họ ngày càng trở nên đau khổ và rối bời trong cuộc sống. Em mong Thầy giúp em trả lời câu hỏi đó với.

+ Trả lời:

Khổ đau, kiếp nạn của em cũng là điều mà bản thể Tuệ linh của em cần phải trải nghiệm để nhận diện được giá trị của ánh sáng giác ngộ sau quá trình chìm trong bóng đêm của u mê. Em đừng lo lắng nữa, đừng dằn vặt với những điều quá khứ nữa. Em đã đến với giáo lý và hai Chân lý, đó là điều tuyệt vời rồi, điều này chính thức đánh dấu sự quay lưng và rời bỏ con đường u mê mà em đã đi. Bài học u mê em cũng đã học được khi em đi trong bóng tối bởi những vọng âm, sợ hãi bởi những thứ trong bóng tối mà em không thấy. Khi em đi đến với con đường ánh sáng của hai Chân lý thì em sẽ có phương pháp để gột rửa hết nghiệp ác đã tạo trong quá khứ. Em sẽ biết phải làm gì để xây dựng hạnh phúc gia đình và giúp đỡ được những người khổ đau khác.

Trong tri thức của “Quy luật Nhân quả” này em cần đọc kỹ nhiều lần, đặc biệt là hai Chân lý với cơ chế phân tách liên kết dây, đọc kỹ Bát Không Hoàn Đạo. Nói chung em không nên bỏ sót bất cứ bài nào trong tri thức của hai Chân lý. Tất cả đều là những tri thức vàng để giúp em vượt qua được các kiếp nạn sau này và gột rửa được hết thảy nghiệp ác trong quá khứ của nhiều kiếp.

Để gột hết nghiệp ác trong vô lượng kiếp và có kinh nghiệm vượt qua được các kiếp nạn sau này thì em phải làm được những điều sau: không được để mình vi phạm vào các quy tắc không được phép vi phạm trong bốn hình tướng Đạo; phải dần thực hiện được hết tất cả các quy tắc phải thực hiện được trong bốn hình tướng Đạo. Hai điều kiện trên mới chỉ là giúp em xây dựng được khuôn mẫu đạo đức, xây dựng niềm tin để mọi người nhìn vào và tin tưởng em. Quan trọng nhất là em hãy lan tỏa những quy tắc không được phép vi phạm và những quy tắc phải làm được trong bốn biểu hiện hình tướng Đạo đến với mọi người. Hãy chia sẻ về hai Chân lý, đó là con đường gột rửa nghiệp ác nhanh nhất. Bởi vì, khi em chia sẻ để giúp mọi người diệt mê khai ngộ chính là em đã cứu giúp được rất nhiều người không rơi vào vòng xoáy của u mê cầu cúng lễ bái đi ngược Quy luật Nhân quả. Khi đó, Trụ linh em sẽ rung động được các hạt nghiệp ác có mã sóng u mê vì cầu cúng lễ bái kéo về, và những hạt năng lượng giúp người được hình thành sẽ hóa giải làm tiêu tan những hạt năng lượng nghiệp ác. Không dừng lại ở đó, trong Trụ linh của em sẽ có được những hạt năng lượng thiện phước và nó được lưu giữ trong đó làm kinh nghiệm và kích hoạt thiện tâm cho em sau này trên hành trình tu hành.

Tuy nhiên, em hãy lưu ý, vì em đi ra từ bóng tối của u mê nên độc tâm trong tâm em sẽ trỗi dậy bất cứ lúc nào để thỏa mãn giả tướng. Vì Trụ linh em đang đa âm nên nó sẽ diễn biến bất chợt khi em nghĩ tiêu cực và năng lượng hoại diệt sẽ di chuyển vào và kiểm soát em. Lúc đó em dễ quay lại con đường u mê hoặc bị giả tướng khác làm cho u mê mới xuất hiện. Do đó, em phải xây dựng cho mình đại hệ tư tưởng biết hy sinh ích kỷ của bản thân để mang lại lợi ích tới mọi người và vạn vật. Hãy cố gắng, em sẽ làm được. Và thành quả sẽ chờ em ở phía trước.

  • Em xin cảm ơn Thầy. Em sẽ quyết tâm đi đến đích trên con đường hai Chân lý.

Câu hỏi 5:

  • Thầy ơi! Em đã quá muộn để có thể tu hành đắc được giác ngộ và bộ lọc năng lượng rồi Thầy. Có lẽ em không có duyên sớm với Thầy, nên trước khi biết đến hai Chân lý và giáo lý của Thầy thì em đã vi phạm vào hình tướng Đạo lễ, đó là không chung thuỷ với chồng, dẫn đến vợ chồng ly tán rồi ạ.

Thầy có cách nào giúp em, chỉ cho em con đường đi đúng để đạt được giác ngộ với ạ.

+ Trả lời:

Như vậy, Tuệ linh em và em đã trải qua một bài học kiếp nạn khổ đau. Bài học kiếp nạn đó coi như đã là sự thất bại. Không sao. Vì em đã nhận ra mình sai nên trí tuệ em đã và đang trau dồi, tích luỹ lại giá trị của bài học đó để thấu hiểu được con đường u mê đã qua. Tuy em thất bại trong bài học kiếp nạn đó, nhưng không có gì là muộn trên hành trình tu hành nhiều kiếp ở nhân gian để đạt đến sự giác ngộ em à. Việc em biết tới hai Chân lý là tuyệt vời, hai Chân lý sẽ giúp em biết cách chuyển hóa nghiệp ác của em và giúp em giác ngộ thành đạo.

Điều đầu tiên là em hãy dành thật nhiều thời gian để đọc, nghiền ngẫm toàn bộ tri thức của hai Chân lý. Tiếp đến là em hãy sống và làm việc tuân thủ các quy tắc trong Quy luật Nhân quả. Tiếp nữa, em hãy lan tỏa những quy tắc trong Quy luật Nhân quả cũng như hai Chân lý tới mọi người, nhất là những bạn trẻ như em và nhỏ hơn em để họ hiểu giá trị của tình yêu, giá trị của sự thuỷ chung và hạnh phúc gia đình. Em càng sẻ chia được những giá trị đạo đức đến với nhiều người thì năng lượng tích cực đó sẽ hóa giải hết những năng lượng nghiệp ác em đã tạo trong quá khứ.

Việc sống đúng hình tướng Đạo và lan tỏa được giá trị đạo đức trong hai Chân lý tới mọi người chính là em đang đi trên con đường giác ngộ. Cố gắng, quyết tâm vì mọi người thì em sẽ nhanh tới đích của giác ngộ viên mãn thôi. Có thể là kiếp này sẽ đạt được hoặc phải thêm kiếp nữa, thậm chí thêm nhiều kiếp nữa đều là do em lựa chọn và quyết tâm hay không.

  • Em cảm ơn Thầy, với những chia sẻ của Thầy em thấy an vui nhiều và có động lực để chọn lựa cho mình con đường giác ngộ.

Câu hỏi 6:

  • Thầy ơi cho em hỏi về vấn đề của các thầy pháp, thầy cúng, thầy phù thuỷ, thầy phong thuỷ có dùng âm binh, bùa ngải trấn yểm. Chuyện là sau khi được học từ Thầy về đại hệ tư tưởng giác ngộ bởi hai Chân lý dẫn đường, em có mấy lần giúp bà con tháo gỡ những chướng ngại. Trước kia họ nhờ các thầy phong thuỷ, phù thuỷ, thầy pháp, pháp sư, thầy cúng lập đàn cúng lễ, lập thờ, trấn yểm để mong muốn làm ăn giàu có hơn, được thăng quan và có danh tiếng, nhưng kết quả em thấy họ đều gặp tai ương, khổ đau từ việc nhờ trấn yểm, bùa ngải, cầu xin đi ngược Quy luật Nhân quả. Đặc biệt có mấy trường hợp em thấy ông thầy mà họ nhờ bị chết đột tử và vong hồn của những ông thầy đó cứ hàng đêm hay đi đến quấy nhiễu những gia đình đã nhờ họ. Em xin Thầy giải thích rõ việc các thầy trấn yểm, dùng bùa ngải, lập thờ, đàn lễ tại sao lại có kết quả không tốt đối với những gia đình nhờ làm việc đó? Và tại sao có những thầy pháp, thầy cúng, thầy phù thuỷ, thầy phong thuỷ lại đột tử chết và đọa thành cô hồn? Cũng may là em đã dùng hóa độ để độ cho họ được siêu thoát rồi Thầy ạ.

+ Trả lời:

Em cũng biết rồi đấy, việc cúng lễ lập đàn để xin công danh, tài lộc, bình an, giải hạn oan gia nghiệp chướng đều là tư tưởng và hành động u mê. Nó biểu tượng cho sự u mê và không có sự giác ngộ về Quy luật Nhân quả cũng như kế hoạch tu hành nơi nhân gian mà con người phải đối mặt để thông qua đó trau dồi, tích luỹ trí tuệ cho việc chuyển hóa Trụ linh cũng như chuyển hóa thành thiện tâm và vị tha.

Việc cầu cúng, trấn yểm, lập đàn lễ, dùng bùa ngải, âm binh chính là dùng một lượng lớn năng lượng tiêu cực để thực hiện sự điều khiển của các thầy bà và mưu cầu của người dân. Điều này làm cho những năng lượng tiêu cực (linh hồn muông thú, linh hồn người chết không được siêu thoát) bị mắc kẹt và bị khống chế sai khiến, khiến cho họ đau khổ cùng cực. Họ đã bị đọa cũng là do nghiệp ác khi sống đã tạo, khi chết lại bị các thầy bà khống chế để thực hiện mưu đồ trục lợi về cả người dùng và người nhờ. Họ bị khống chế trong sự bất lực vì năng lượng họ không cân bằng, vì họ do nghiệp ác mà không đủ sức mạnh để đi vào vòng luân hồi. Việc những năng lượng tiêu cực đó bùng phát để phản kháng là chuyện thường tình sau quá trình đau khổ bị dồn nén vào đường cùng. Khi họ bùng phát với số lượng nhiều thì họ sẽ khiến những gia đình nhờ thầy làm trấn yểm bị phá phách cho gia đạo bấn loạn, công việc, sự nghiệp cũng bị tan vỡ. Điều này là xứng đáng cho hành động u mê của các gia đình mưu cầu giàu sang, công danh, giải hạn bằng con đường đi ngược Quy luật Nhân quả, bằng sự khổ đau của những bản thể linh hồn, Tuệ linh đang mắc kẹt, đó là cái kết quả cho một quy trình nhân quả ngay tại hiện kiếp. Thậm chí quả báo sẽ còn trả ở kiếp tiếp theo cho những hành động u mê của người nhờ và cả người thầy hành nghề u mê đó.

 

Vấn đề các thầy chết đột tử là do chính âm binh của thầy đánh lại, giết lại thầy vì họ bị khống chế trong cùng cực, bị bóc lột trong khổ đau. Các thầy bà có các phương pháp khống chế những linh hồn đau khổ để bắt họ phục vụ hoặc dẫn dụ sẽ được lợi ích. Khi người thầy hành nghề u mê, mê tín, trấn yểm, bùa ngải, âm binh thì trong tâm của người thầy đó sẽ phân tách ra vô số năng lượng sóng điện âm. Những hành động u mê khiến họ bị phóng xạ âm mạnh, đó là cơ hội để âm binh, những linh hồn bị khống chế bùng lên và tác động vào làm cho người thầy đột tử chết hoặc tai nạn chết. Đó cũng là nghiệp của người hành nghề u mê hại cả người sống và người đã chết, hại cả linh hồn muông thú chết do nghiệp mà không được siêu thoát. Vì đã tạo nghiệp khống chế không cho những linh hồn, âm binh được siêu thoát nên cái giá phải trả cho linh hồn của những người thầy là sẽ phải đọa thành cô hồn để thống khổ, để thấu hiểu những nghiệp ác mình đã tạo. Họ sẽ không được Hội đồng Tuệ linh đưa về nơi tu tập để luân hồi ngay, họ sẽ bị đọa có khi đến vài trăm năm, thậm chí cả nghìn năm may ra mới gặp được bậc chân tu độ cho họ được siêu thoát. Việc em giúp họ được siêu thoát là điều nên làm, cũng là bài học lớn cho bản thể linh hồn của những người thầy u mê đó. Về cõi Địa phủ họ sẽ được giáo hóa cho những nghiệp họ đã tạo và kiếp sau họ sẽ chụp chiếu và sống trong cảnh khổ đau của việc bị thầy bà lừa hại, đó là nhân quả phản chiếu ở kiếp tới của họ.

  • Em cảm ơn Thầy đã phân tích giải thích rõ. Em sẽ cố gắng giúp đỡ bà con hơn nữa bằng hai Chân lý Thầy ạ.

Câu hỏi 7:

  • Xin hỏi Thầy về vấn đề phóng sinh. Phóng sinh như thế nào là tốt nhất theo Quy luật Nhân quả? Việc mọi người mua những con chim, con ốc… rồi mang ra chùa, ra đền để cúng phóng sinh có đúng không?

+ Trả lời:

Trước tiên phải hiểu đúng về phóng sinh, đó là đảm bảo sự tự do, giải phóng thành sự tự do, cứu giúp để được tự do cho con người, muông thú, vạn vật. Như vậy, phạm trù phóng sinh nó rất rộng, từ việc đảm bảo sự tự do cho con người, muông thú, vạn vật cho đến sự cứu giúp, giải cứu con người, muông thú, vạn vật khỏi sự giam cầm và nguy hại đến tính mạng. Không nên hiểu phóng sinh theo nghĩa hẹp chỉ là giải cứu con vật nào đó được về với tự nhiên.

Phóng sinh tốt nhất là giữ được sự tự do cho con người, muông thú, vạn vật. Đó là không chà đạp nhân phẩm của ai, không khống chế ai, không đàn áp ai, không đánh đập giết hại ai; không giết hại hay giam cầm muông thú để thỏa mãn việc ăn uống hay ngắm cảnh; không tàn phá thiên nhiên, tài nguyên nước, đất, cỏ cây. Phóng sinh tốt nhất cũng chính là dừng hành động giết hại những con vật để phục vụ cho bữa ăn, thay vào đó ăn rau củ quả thực vật. Tiếp đến, trong cuộc sống khi gặp những con người, muông thú, vạn vật đang bị nguy hại đến tính mạng, đến sự tự do, đến phẩm hạnh thì hãy cứu giúp tận tâm.

Việc mọi người đi mua những con chim, con ốc, con cá, hoặc con vật nào đó để mang ra chùa, ra đền thực hành nghi lễ cúng phóng sinh là điều không tốt chút nào. Đó là hành động của mong cầu, cầu xin phước báo từ Chư thiên, Chư Phật, Thần thánh, giống như một cuộc đánh đổi với Phật, Thần, Thánh, rằng tôi có làm thiện, tôi có hành động phóng sinh và các vị hãy độ cho tôi. Đây là sự u mê của con người, sự u mê vì không hiểu Quy luật Nhân quả được vận hành theo cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng. Khi họ hành động phóng sinh xuất phát từ thiện tâm thương yêu muôn loài thì đều phân tách ra những năng lượng tốt lưu giữ trong Vũ trụ, trong Trụ linh của họ và của những chúng sinh được cứu giúp. Sự u mê nhiều khi làm cho những con chim, con ốc, con cá, con thú bị chết do quá trình chờ đợi được thả tự do, trong quá trình cúng bị chết. Việc phóng sinh không phải cúng trình ai hay ngài nào cả, nó nên được thực hiện ngay khi thấy muôn loài gặp nguy đến tính mạng trong khi ta có khả năng cứu giúp. Bởi tất cả đều có cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả, nên việc phóng sinh cũng do cơ chế phân tách, liên kết hạt năng lượng vận hành.

  • Xin cảm ơn Thầy đã giảng giải.

Câu hỏi 8:

  • Thầy ơi! Xin Thầy phân tích về nghiệp báo của người làm nghề giết mổ? Người bán thịt lợn, gà, trâu, bò… có bị nghiệp báo không khi mà họ không trực tiếp giết mổ mà chỉ mua từ lò giết mổ rồi về bán?

+ Trả lời:

Làm nghề giết mổ muông thú là ác nghiệp rất nặng. Người làm nghề giết mổ sẽ giết hại, tước đi quyền được sống của rất nhiều con thú, đó là vi phạm Quy luật Nhân quả hết sức trầm trọng. Khi loài người được hình thành bởi các cuộc tập kết nhân loại, vị Tuệ linh đầu tiên đã truyền dạy con người là phải thuần hóa muông thú để chúng cùng làm người tu hành, Ngài không dạy con người giết hại chúng. Mỗi lần giết hại một con thú, trong Trụ linh của người giết hạt sẽ phân tách ra 3 hạt năng lượng màu đen, một hạt lưu giữ ở Trụ linh của họ, một hạt bay vào Vũ trụ, một hạt bay vào linh hồn của con thú. Khi con thú bị giết nó sẽ sinh ra 3 hạt năng lượng màu đỏ máu, một hạt trong Trụ linh của Linh hồn nó, một hạt bay vào Vũ trụ, một hạt bay vào Trụ linh của người giết. Vì giết rất nhiều nên dẫn đến đa âm trong Trụ linh người giết mổ và có quá nhiều năng lượng oán hận của muông thú được lưu giữ trong Vũ trụ. Đặc biệt, có quá nhiều muông thú cũng là do Tuệ linh hóa thân thành để trả nghiệp giết hại muông thú khi họ còn sống, do đó sự oán hận sẽ gia tăng và mức độ liên kết giữa năng lượng ác nghiệp sẽ rất lớn. Người hành nghề giết mổ sẽ chịu Quy luật Nhân quả ngay hiện kiếp khi sẽ phải đối mặt với bệnh tật và cuộc sống gia đạo không được hạnh phúc. Trụ linh của Tâm (Tuệ linh) phóng xạ năng lượng âm do liên kết hạt năng lượng nghiệp ác nhiều sẽ khiến cho cơ thể không cân bằng âm dương mà sinh nhiều bệnh. Đối với các kiếp sau, họ sẽ phải đọa thành muông thú trong nhiều kiếp, số kiếp tương ứng với số lượng con thú bị họ giết. Khi được làm người thì họ sẽ chịu những căn bệnh, những khổ đau giống như những hành động giết hại các con thú vậy.

Người bán thịt của những con thú dù không trực tiếp giết hại cũng đều chịu nghiệp báo của việc hành nghề buôn bán thân xác những sinh linh bị mất đi quyền sống và tự do. Tất nhiên, nghiệp báo sẽ không nặng như những người giết hại nhưng cũng không nhẹ chút nào. Khi những con thú bị giết thì chúng đã oán hận người giết và phân tách ra những hạt năng lượng tiêu cực sóng điện âm trong Trụ linh của linh hồn chúng, hạt năng lượng âm đó phân tách thành vô số hạt và lưu trữ trong cơ thể, trong máu, trong thớ thịt của con thú. Khi người buôn bán, đứng cạnh, mổ xẻ từng thớ thịt thì cũng là lúc những hạt năng lượng âm trong từng thớ thịt của con thú di chuyển vào cơ thể, vào Trụ linh của người buôn bán xẻ thịt chúng. Hành động của những người đó cũng khiến cho Trụ linh họ phân tách ra vô số hạt năng lượng màu xám và màu đen, những hạt năng lượng đó cũng theo cơ chế phân tách làm 3 vùng. Đó là những hạt năng lượng của U mê và Hành mê. Người buôn bán thịt lâu cũng sẽ sinh bệnh. Kiếp sau họ cũng sẽ phải trả lại nghiệp ác là sẽ bị các trọng bệnh, bị mổ xẻ triền miên, bị tai nạn, bị âm hồn chưa siêu thoát theo hành hạ.

Người ăn thịt cũng bị hấp thụ những năng lượng tiêu cực oán hận của muông thú, lâu ngày sẽ sinh nhiều bệnh khó chữa. Do đó, thay thế việc ăn thịt động vật bằng rau củ quả, thực vật có đầy đủ dinh dưỡng cũng chính là phóng sinh mà con người nên làm.

  • Xin chân thành cảm ơn Thầy.

Câu hỏi 9:

  • Thưa Thầy! Con người không biết những việc đã làm ở các kiếp quá khứ, họ không biết là đã làm những điều tốt gì cũng như những ác nghiệp gì. Vậy có phương pháp nào để mỗi người đều hóa giải được tất cả những nghiệp ác ở các kiếp quá khứ và gia tăng được thiện phước trong kiếp này?

+ Trả lời:

Đúng vậy, việc con người không được biết, không được nhớ về các kiếp quá khứ là kế hoạch của con đường tu hành nơi nhân gian. Nếu con người biết về những điều quá khứ thì họ sẽ chìm đắm, say mê trong quá khứ để sống và vọng tưởng, nó sẽ rất nguy hiểm cho kế hoạch tu hành. Do đó, việc không được biết quá khứ chính là để đảm bảo việc sống và tu hành ở hiện kiếp được đúng theo Quy luật Nhân quả để con người có thể tu hành cải tạo được Tuệ linh thành đạo.

Việc không biết mình đã làm gì trong quá khứ cũng là điều khiến cho con người phải tò mò, tìm tòi con đường tu luyện để có được trí tuệ thấu hiểu Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, khi đó sẽ thấu quá hiểu khứ, hiện tại, tương lai, sẽ thấu hiểu được những thành tựu hay nghiệp ác trong quá khứ. Tuy nhiên không phải ai cũng thấu hiểu, bởi nó không hề dễ dàng chút nào. Để thấu hiểu hai Chân lý thì con người cần phải trải nghiệm đủ các cung bậc trạng thái cảm xúc trong nhiều kiếp để trau dồi trí tuệ. Khi trau dồi được trí tuệ trong nhiều kiếp nạn khổ đau thì con người mới có niềm tin và thấy sự kỳ diệu từ hai Chân lý.

Có một phương pháp siêu việt nhất để gột rửa, chuyển hóa được tất cả các nghiệp ác trong các kiếp quá khứ cũng như gia tăng được năng lượng phước báo tại hiện kiếp, đó chính là Phổ độ hai Chân lý, Quy luật Nhân quả, cội nguồn nhân loại, con đường xây dựng giá trị đạo đức trong hệ thống tri thức của hai Chân lý. Vì trong hệ thống tri thức của hai Chân lý có vô lượng hạt năng lượng từ loại hạt đơn trong năm nhóm cho đến các siêu hạt, những kiến thức trong đó đều là các sóng rung động có trong tất cả năng lượng trong và ngoài Vũ trụ, nó có khả năng rung động và liên kết về để chuyển hóa cho người học. Việc phổ độ chính là việc mỗi người thấu hiểu toàn bộ hệ thống giáo lý và dùng nó chia sẻ, truyền dạy, lan tỏa đến mọi người để mọi người cứu Tuệ linh của chính mình, giúp đỡ nhiều người cùng cứu giúp Tuệ linh họ đi đúng con đường tu hành để thành đạo trở về. Thân tướng trải qua các kiếp với những kế hoạch trong khổ đau, kiếp nạn cũng là nhằm mục đích giúp cho Tuệ linh nhận diện được khổ đau và trau dồi trí tuệ trên hành trình tu hành để thành đạo. Việc phổ độ chính là việc gột rửa nghiệp ác nhanh nhất, gột rửa hết tất cả nghiệp ác, đồng thời gia tăng được vô lượng hạt năng lượng thiện nghiệp, vì phổ độ chính là giúp nhân loại, mọi người, Tuệ linh, Linh hồn có được phương pháp để cứu cánh cho thân tướng, trí tuệ và Tuệ linh. Nó là giá trị vô lượng nhất để Tuệ linh cải tạo được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

  • Thưa thầy, vậy việc xây dựng trường học, đường xá, bệnh viện, cứu giúp dân chúng khi thiên tai, dịch bệnh thì sao ạ?

+ Những việc thiện đó là phước báo vô lượng, là những hành động gián tiếp lan tỏa tri thức trong giáo dục, trực tiếp lan tỏa của cải, phương tiện để cứu thân tướng cho con người. Những việc đó rất tuyệt vời và chúng ta nên làm. Tuy nhiên đó mới là cứu giúp thân tướng và trí tuệ của chân tu, nó chưa phải là cứu giúp tổng thể cả Tuệ linh, trí tuệ, thân tướng như Phổ độ để hướng con người hành thiện gột rửa hết nghiệp ác và cấu tạo được Trụ linh. Để hóa giải được tất cả nghiệp ác quá khứ thì cần có tất cả trí tuệ giác ngộ của hai Chân lý và phổ độ cho những người khác thì mới kích hoạt sự rung động của hạt năng lượng nghiệp ác đã lưu giữ trong Vũ trụ liên kết đến Trụ linh và chuyển hóa thành năng lượng tốt, mới cấu tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Do vậy, chỉ duy nhất phổ độ đại hệ tư tưởng của hai Chân lý, Quy luật Nhân quả, tri thức của hai Chân lý mới gột rửa hết thảy nghiệp ác trong các kiếp quá khứ và đồng thời cấu tạo được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.

Trên đây là những câu hỏi về Quy luật Nhân quả để làm dẫn chứng cách phân tích ứng dụng hai Chân lý với cơ chế phân tách liên kết dây của hạt năng lượng trong việc giải mã các vấn đề Quy luật Nhân quả. Từ đó, mỗi người sẽ biết cách phân tích, giải mã, ứng dụng hai Chân lý và cơ chế vận hành vào trong Quy luật Nhân quả để xây dựng giá trị đạo đức cho bản thân cũng như mọi người đạt được viên mãn nhất.

Như vậy, Quy luật Nhân quả và cơ chế vận hành là một phần quan trọng trong hệ thống tri thức của hai Chân lý. Nó đã giải mã được bản chất, cội nguồn, cơ chế vận hành, những quy tắc, các mức độ chuyển hóa trong mối quan hệ tương tác trong Quy luật Nhân quả của con người tại nhân gian này, nó được kết tinh từ hai Chân lý với sự gieo duyên trợ giúp của Hội đồng Tuệ linh. Quy luật Nhân quả được vận hành bằng cơ chế và được hỗ trợ gieo duyên từ Hội đồng Tuệ linh, tức là Hội đồng Tuệ linh chỉ làm nhiệm vụ gieo duyên mà không thể can thiệp thay đổi nhân quả của bất kỳ ai. Không có một Ngài nào, Tuệ linh nào có thể thương xót hoặc thù ghét ai mà can thiệp thay đổi nhân quả của họ. Chính bản thân các Tuệ linh hay kể cả vị Tuệ linh đầu tiên cũng phải vận hành thông qua cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả. Do đó, họ không thể ban phát tài lộc hay hóa giải vận hạn cho bất kỳ ai. Con người, nhân loại phải vận hành theo cơ chế để đổi thay, cải tạo nhân quả của chính mình.

***************

Rate this post

Bài viết liên quan