Bài 19: Bài Đạo

Bài Đạo chính là Đạo hợp nhất của Vũ trụ.

Bài Đạo được hiểu là Đạo Vô Đạo. Đạo Vô Đạo được kết cấu thành 3 phần. Chữ Đạo đầu tiên là khái niệm và bản chất của Đạo. Chữ Vô là Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển sinh của Đạo. Chữ Đạo cuối cùng là Chân lý Giác ngộ với con đường chuyển sinh bền vững duy nhất của Đạo.

Trong bài Đạo này, Đạo hợp nhất của Vũ trụ sẽ được phân tích, soi sáng, phơi bày sự thật bằng hai Chân lý. Đặc biệt, dạng sống con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh để đi tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Do đó, tri thức của hai Chân lý sẽ thức tỉnh con người, Tuệ linh về cội nguồn và có sức mạnh thực hiện hoàn thành sứ mệnh của mình sau khi đã thấu hiểu về Đạo hợp nhất của Vũ trụ.

I.   Khái niệm về Đạo

Đạo là Vũ trụ quan xung quanh Tuệ linh và con người. Tuệ linh và con người phải dùng Trụ linh để thấu hiểu, cải tạo, phát triển Vũ trụ quan trở nên bền vững.

Đạo là Vũ trụ quan xung quanh Tuệ linh và con người. Vì sao Tuệ linh và con người là trung tâm của Vũ trụ? Vì sao Đạo lại là Vũ trụ quan xung quanh Tuệ linh và con người? Sao không phải là dạng sống nào khác? – Bởi vì Tuệ linh được sinh ra đầu tiên, trước khi tinh cầu năng lượng khổng lồ bị kích nổ để hình thành Vũ trụ cho đến nay. Tức là, Tuệ linh đầu tiên đã được hình thành từ hai hạt năng lượng âm và dương tận cùng (gốc). Đó là phôi năng lượng âm dương của vị Tuệ linh đầu tiên – Người Cha – Người Thầy của Vũ trụ. Phôi năng lượng đó cũng là phôi năng lượng gốc của Vũ trụ. Như vậy, vị Tuệ linh đầu tiên và Vũ trụ đều được hình thành từ một phôi năng lượng âm dương gốc. Do cơ chế phân tách, liên kết dây của hạt năng lượng mà từ phôi năng lượng gốc của vị Tuệ linh đầu tiên đã phân tách và chuyển sinh thành vô số Tuệ linh, hình thành các nhóm vật chất từ giản đơn cho tới phức tạp và siêu phức tạp. Vũ trụ phát triển từ vụ nổ năng lượng với sự hiện hữu vĩ đại của vị Tuệ linh đầu tiên. Ngài ấy đã gieo duyên để chuyển sinh ra vô số Tuệ linh từ những hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Tiếp đến Ngài cùng dạng sống Tuệ linh xây dựng các hành tinh, các khối thiên hà. Các khối thiên hà với vô số hệ mặt trời, mỗi hệ mặt trời lại có vô số hành tinh. Vô số các khối thiên hà được sắp xếp từ lõi của Vũ trụ (cõi trời của vị Tuệ linh đầu tiên) tầng tầng lớp lớp từ trong ra ngoài tạo thành tinh cầu Vũ trụ khổng lồ. Vị Tuệ linh đầu tiên cùng dạng sống Tuệ linh an trụ tại lõi của Vũ trụ. Ngài cùng dạng sống Tuệ linh xây dựng, phát triển, bảo vệ Vũ trụ. Do đó, Đạo là Vũ trụ quan xung quanh Tuệ linh. Tuệ linh là trung tâm của Vũ trụ. Tuệ linh là dạng sống thống lãnh bảo vệ, phát triển Vũ trụ. Sau này khi dạng sống Tuệ linh hóa thân thành con người để truy tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ thì con người và Tuệ linh là trung tâm của Vũ trụ.

Để cải tạo, phát triển Đạo hợp nhất của Vũ trụ trở nên bền vững, Tuệ linh và con người phải thông qua hai Chân lý để thấu hiểu tất cả các bản chất của chính Tuệ linh, con người và tất cả các nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ quan xung quanh. Tiếp đến là thông qua Chân lý Vạn vật để giải mã, thấu hiểu Đạo hợp nhất của Vũ trụ với các con đường chuyển sinh. Cuối cùng là thông qua Chân lý Giác ngộ để xác định được con đường chuyển sinh bền vững duy nhất cho Đạo hợp nhất của Vũ trụ.

II.  Bản chất của Đạo hợp nhất Vũ trụ

Vị Tuệ linh đầu tiên cùng dạng sống Tuệ linh đã tu tập, nghiên cứu, giải mã, truy tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ từ khi được hình thành cho tới nay, và cuối cùng đã tìm ra được Đạo hợp nhất của Vũ trụ thông qua Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ. Đó là tìm được bản chất tận cùng, các con đường chuyển sinh và con đường chuyển sinh bền vững duy nhất của Đạo Vũ trụ trong sự hợp nhất.

Để thấu hiểu tất cả các bản chất của Đạo hợp nhất Vũ trụ thì phải thông qua bản chất về hạt năng lượng tận cùng (hạt năng lượng nhân quả), thông qua cơ chế phân tách và liên kết dây (cơ chế vận hành của hai Chân lý), thông qua cấu trúc tam hợp của vạn vật, thông qua cơ chế quay tròn, thông qua bản chất của thông tin, thông qua sự sống và cái chết, thông qua cơ chế chuyển sinh.

Bản chất Đạo hợp nhất của Vũ trụ gồm có: Cội nguồn của Vũ trụ, Tuệ linh, con người; cấu trúc của Vũ trụ, Tuệ linh và con người; bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của 5 nhóm vật chất và Tuệ linh; bản chất khổ đau của vạn vật và Tuệ linh; Tuệ linh giải mã và mã hóa thông tin toàn diện thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian; bản chất khổ đau và con đường diệt khổ của con người và Tuệ linh; kiểm soát độc tâm và kích hoạt thiện tâm của con người và Tuệ linh;

Đạo của Vũ trụ hợp nhất ở hình tướng và tâm tướng; bản chất Kết – Định – Tỏa của Đạo hợp nhất Vũ trụ.

1. Cội nguồn của Vũ trụ, Tuệ linh và con người

  • Cội nguồn của Vũ trụ

Vũ trụ chúng ta đang sống hiện tại là 1 tinh cầu với vô số các khối thiên hà. Các khối thiên hà được sắp xếp từ không gian lõi cho tới hết phía bên ngoài tinh cầu Vũ trụ. Các khối thiên hà đầu tiên được sắp xếp bao trùm không gian lõi bởi sự liên kết giữa các khối thiên hà, vô số các khối thiên hà tiếp theo được sắp xếp bao phủ theo hướng tầng tầng, lớp lớp các khối thiên hà bên trong và phủ khắp toàn tinh cầu Vũ trụ. Mỗi khối thiên hà lại được sắp xếp bởi nhiều dải thiên hà cấu tạo thành. Mỗi dải thiên hà lại có vô số hệ mặt trời được sắp xếp tập trung tạo thành các dải ánh sáng rực rỡ. Mỗi hệ mặt trời lại có nhiều hành tinh quay xung quanh. Trái đất chúng ta đang sống chính là một hành tinh quay xung quanh một mặt trời. Đó là một Vũ trụ kỳ vĩ.

Tại thời điểm hiện tại của Vũ trụ, thông qua cơ chế phân tách liên kết của hạt năng lượng, chúng ta trở ngược về thời điểm hai hạt năng lượng tận cùng có sóng điện âm và dương liên kết với nhau để tạo ra phôi âm dương cho sự khởi đầu của Vũ trụ. Tính theo đơn vị đo lường thời gian của Trái đất cũng tương đương 20 tỷ năm. Như vậy, mất 20 tỷ năm để từ một phôi năng lượng âm dương thông qua cơ chế phân tách và liên kết hạt năng lượng để tạo thành một Vũ trụ kỳ vĩ với vô số các khối thiên hà được cấu tạo thành một tinh cầu Vũ trụ khổng lồ. Đây đã phải là cội nguồn của Vũ trụ chưa? – Nó chưa phải là cội nguồn của Vũ trụ. Cội nguồn của Vũ trụ còn ở tiến xa về quá khứ rất nhiều.

Cội nguồn quá khứ của Vũ trụ theo trình tự như sau:

  • Trong không gian vô tận, vô cùng, không có khu vực nào có sóng điện âm hay dương, có những điểm như những cái hang vô hình. Từ những cái hang vô hình đó, có những hạt sóng xanh bé li ti được bay ra ngoài không gian. Những hạt sóng xanh chưa sinh phát ra nhiệt lượng, chưa sinh phát ra trạng thái năng lượng. Đặc biệt là những hạt sóng xanh này chưa mã hóa thông tin nên nó chưa phát triển nâng cấp thành các cấu trúc có trí tuệ. Những hạt sóng xanh được coi là cội nguồn của Vũ trụ.
  • Những hạt sóng xanh được sinh ra từ những cái hang vô hình để di chuyển ra ngoài theo quỹ đạo hình xoắn ốc. Những hạt sóng xanh di chuyển ra ngoài không gian không có sóng điện khiến chúng không quay tròn xung quanh chính nó. Những hạt sóng xanh di chuyển theo hình xoắn ốc là do quỹ đạo di chuyển từ lúc sinh ra. Vì những hạt sóng xanh khi di chuyển đã bắt đầu sinh nhiệt lượng trong nội tại hạt sóng xanh, chúng phân tách nhân đôi và tách ra để tiếp tục di chuyển. Quá trình di chuyển trong môi trường không có sóng điện, những hạt sóng xanh bắt đầu sinh nhiệt nên chúng bắt đầu giải mã, mã hóa thông tin quá trình di chuyển vào hạt. Quá trình di chuyển, giải mã, mã hóa đã khiến chúng chuyển sinh thành sợi mã sóng trí tuệ còn dang dở. Sợi mã sóng trí tuệ còn dang dở đó đã tạo thành hạt năng lượng tận cùng, đó là năng lượng hoại diệt. Năng lượng hoại diệt có sợi mã sóng trí tuệ đã giải mã và mã hóa được những thông tin nhất định trong quá trình di chuyển. Tuy nhiên vì môi trường không có sóng điện, vì hạt sóng xanh không quay tròn, việc mã hóa thông tin và nâng cấp thành cấu trúc trí tuệ chưa cao. Nó mới chỉ dừng lại ở hạt năng lượng tận cùng và không có cơ chế liên kết giữa các hạt năng lượng hoại diệt với nhau. Vì năng lượng hoại diệt không liên kết với nhau nên chúng không tuần hoàn được sóng điện cho nhau trong quá trình vận động. Điều này khiến cho chúng nhanh bị dư thừa nhiệt lượng trong hạt khi chúng di chuyển với mật độ dày. Chính vì điều này mà năng lượng hoại diệt đã bị kích nổ ở nhiều khu vực trong không gian chứa đựng vô số năng lượng hoại diệt. Những vụ nổ của năng lượng hoại diệt đã bắt đầu tạo ra những môi trường nhỏ có sóng điện âm và dương. Như vậy, năng lượng hoại diệt là nền móng để xuất hiện Vũ trụ cũng như là nguồn cung năng lượng giúp Vũ trụ phát triển về sau này. Quá trình năng lượng hoại diệt được sinh ra đã giúp cho năng lượng hoại diệt phát triển lớn mạnh và bao trùm trong không gian vô tận. Năng lượng hoại diệt sống trong môi trường không có sóng điện âm dương.
  • Khi xuất hiện những khu vực có sóng điện dương và âm trong không gian sống của năng lượng hoại diệt, các hạt sóng xanh vẫn được sinh ra, có những hạt sóng xanh đã di chuyển vào các khu vực có sóng điện âm, dương đó. Những hạt sóng xanh di chuyển vào không gian sóng điện dương đã chuyển hóa thành hạt năng lượng dương tận cùng có cơ chế liên kết dây. Những hạt sóng xanh di chuyển vào không gian sóng điện âm đã chuyển hóa thành hạt năng lượng âm tận cùng có cơ chế liên kết dây. Quá trình các hạt sóng xanh di chuyển vào không gian có sóng điện âm và dương đã khiến cho các hạt sóng xanh quay tròn xung quanh chính nó để giải mã, mã hóa thông tin trong quá trình biến đổi và chuyển sinh thành sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh. Những sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh đã cấu tạo thành hạt năng lượng hoàn chỉnh có khả năng nâng cấp cao hơn bởi chúng có khả năng liên kết. Khi xuất hiện những hạt năng lượng tận cùng có sóng điện, những hạt năng lượng hoại diệt di chuyển tới để xả sóng điện dư thừa trong nó. Quá trình này sẽ thành công khi các hạt năng lượng hoại diệt gặp được hạt năng lượng âm. Quá trình xả sóng điện dư thừa sẽ thất bại khi gặp hạt năng lượng dương, bởi cả hai sẽ bị kích nổ. Những hạt năng lượng có sóng điện được sinh ra và bị kích nổ hoặc bị đồng hóa xảy ra liên tục, tuy chưa phát triển thành cấu trúc vật chất mới, nhưng là tín hiệu để hình thành cấu trúc vật chất với trí tuệ lớn hơn.
  • Sự xuất hiện phôi năng lượng âm dương trong không gian năng lượng hoại diệt đã xảy ra. Đó là một hạt năng lượng dương màu vàng có sóng điện dương siêu mạnh đã liên kết với một hạt năng lượng âm màu trắng xám với sóng điện âm rất nhẹ. Khi hai hạt năng lượng âm dương liên kết với nhau đã xuất hiện màng bọc chân tâm bao bọc phôi âm dương. Đây là sự nâng cấp trí tuệ vô cùng lớn từ khi xuất hiện hạt sóng xanh. Phôi năng lượng âm dương này được sinh ra từ hạt sóng xanh. Đây là phôi năng lượng âm dương khởi đầu cho sự hình thành Vũ trụ.
  • Phôi năng lượng âm dương khi liên kết với nhau, chúng quay tròn để giải mã, mã hóa thông tin trong quá trình vận động. Sự xuất hiện phôi năng lượng âm dương trong không gian sống của năng lượng hoại diệt đã khiến cho năng lượng hoại diệt bắt đầu xâm nhập tới để xả sóng điện dư thừa. Vì có màng bọc chân tâm bao bọc vững chắc, vì sóng điện âm trong phôi năng lượng rất nhẹ nên không kích động nhiều năng lượng hoại diệt xâm nhập tới. Khi năng lượng hoại diệt xâm nhập tới, vì có sóng điện dương siêu mạnh của hạt năng lượng dương nên sóng điện dương được truyền ra và làm kích nổ năng lượng hoại diệt. Phôi năng lượng âm dương hấp thụ nhiệt lượng vào để xảy ra quá trình phân tách hạt năng lượng trong phôi năng lượng âm dương. Quá trình tấn công của năng lượng hoại diệt và quá trình kích nổ, hấp thụ nhiệt của phôi năng lượng diễn ra liên tục. Quá trình đó đã giúp cho phôi âm dương này chuyển sinh thành tinh cầu năng lượng khổng lồ với màng bọc chân tâm vô cùng vững chắc. Bên trong tinh cầu năng lượng khổng lồ có một Trụ linh cho quá trình vận hành tinh cầu năng lượng khổng lồ. Trụ linh đó chính là phôi năng lượng âm dương đã chuyển sinh thành. Chính Trụ linh đó đã phân tách ra năm nhóm năng lượng cấu tạo thành Vũ trụ sau này. Trụ linh đó chính là Trụ linh của vị Tuệ linh đầu tiên, tức là vị Tuệ linh đầu tiên được hình thành song song cùng Vũ trụ.
  • Tinh cầu năng lượng khổng lồ với năm nhóm hạt năng lượng bị nén bên trong, đồng thời, năng lượng hoại diệt cũng lớn mạnh nên chúng tấn công ồ ạt vào màng bọc tinh cầu năng lượng khổng lồ. Vừa bị sức nén từ bên trong tinh cầu và nhiều năng lượng hoại diệt tập trung lớn ở màng bọc chân tâm của tinh cầu năng lượng do đó, màng bọc tinh cầu năng lượng đã bị kích nổ. Vụ nổ đó đã khiến cho không gian năng lượng hoại diệt vô cùng lớn xung quanh bên ngoài tinh cầu bị nổ theo. Năm nhóm năng lượng trong tinh cầu sau vụ nổ đã giải phóng ra bên ngoài tạo thành không gian rộng lớn của năm nhóm năng lượng khổng lồ. Không gian năm nhóm năng lượng khổng lồ do có cơ chế liên kết dây, do có quay tròn nên quay tròn xung quanh lõi của không gian năm nhóm năng lượng.
  • Vụ nổ đã làm cho năng lượng hoại diệt bị tiêu hao quá lớn. Vụ nổ cũng cung cấp nhiệt lượng vô cùng lớn và giá trị để giúp cho vị Tuệ linh đầu tiên kiến thiết, xây dựng thành các dạng sống, thành Vũ trụ như ngày nay với vô số khối thiên hà.

Như vậy, cội nguồn của Vũ trụ là một hành trình dài vô tận để có được sự sống của Vũ trụ như ngày nay. Hạt sóng xanh được gọi là cội nguồn của Vũ trụ. Năng lượng hoại diệt bị kích nổ sẽ cung cấp năng lượng cho quá trình phát triển Vũ trụ trở nên bền vững và lớn mạnh. Năm nhóm năng lượng thông qua cơ chế quay tròn, tam hợp, phân tách liên kết dây để cấu tạo thành tinh cầu Vũ trụ với vô số các khối thiên hà. Vị Tuệ linh đầu tiên và dạng sống Tuệ linh đã kiến thiết, xây dựng, phát triển, bảo vệ Vũ trụ phát triển bền vững.

1.2.  Cội nguồn của Tuệ linh

Tuệ linh là một cấu trúc năng lượng với vô số hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Tuệ linh có siêu trí tuệ, có khả năng di chuyển và cải tạo trong không gian Vũ trụ.

Tuệ linh chính là dạng sống, cấu trúc Tướng giống với hình hài con người. Họ sống chủ yếu tại không gian lõi của Vũ trụ. Tuệ linh chính là Chư thần, Thánh thần, Phật, Thiên Chúa… theo quan điểm tôn giáo. Tuệ linh chính là người ngoài hành tinh, theo cách gọi của khoa học đang tìm kiếm sự sống giống con người ngoài Trái đất. Tuệ linh không phải do các Tuệ linh giao phối sinh ra. Tuệ linh được sinh ra là do cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là những hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương hợp lại thành phôi âm dương (Trụ linh) và hình thành

Tuệ linh.

Vậy, cội nguồn của dạng sống Tuệ linh? – Cội nguồn của dạng sống Tuệ linh được chia làm hai hành trình:

  • Vị Tuệ linh đầu tiên được hình thành cùng lúc và song song với sự hình thành tinh cầu năng lượng của Vũ trụ. Đó là, khi phôi năng lượng âm dương của Vũ trụ được hình thành thì đó chính là phôi năng lượng âm dương của vị Tuệ linh đầu tiên. Khi phôi năng lượng đó hình thành và phân tách liên kết trong môi trường có năng lượng hoại diệt bị kích nổ bên ngoài màng bọc chân tâm, phôi năng lượng đó giải mã, mã hóa thông tin toàn diện môi trường xung quanh để phân tách ra năm nhóm hạt năng lượng tận cùng để cấu tạo thành tinh cầu Vũ trụ. Quá trình phân tách đó đồng thời diễn ra quá trình liên kết những hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp nhất, tinh hoa nhất để cấu tạo thành Trụ linh trưởng thành và sau này là hình hài một vị Tuệ linh sống trong tinh cầu năng lượng đó. Khi vụ nổ xảy ra, vị Tuệ linh đầu tiên đứng giữa không gian lõi của không gian năm nhóm năng lượng khổng lồ. Như vậy, vị Tuệ linh đầu tiên được hình thành từ hai hạt sóng xanh chuyển sinh thành. Đó là hai hạt sóng xanh di chuyển vào môi trường có sóng điện âm và dương để giải mã, mã hóa thông tin và nâng cấp cấu trúc trí tuệ thành hạt năng lượng tận cùng. Sau đó hai hạt năng lượng âm dương tận cùng này liên kết với nhau để cấu tạo thành phôi năng lượng âm dương của vị Tuệ linh đầu tiên và cũng là của Vũ trụ. Có thể nói, Trụ linh của vị Tuệ linh đầu tiên này lưu giữ toàn bộ sợi mã sóng trí tuệ của cả tinh cầu năm nhóm năng lượng. Đây là điều đặc biệt và duy nhất chỉ có vị Tuệ linh đầu tiên có, điều mà dạng sống Tuệ linh được hình thành sau này không có được.
  • Sau vụ nổ năng lượng, vị Tuệ linh đầu tiên bắt đầu kiến thiết, xây dựng các dạng sống trong toàn bộ Vũ trụ. Vị Tuệ linh đầu tiên đã phân năm nhóm năng lượng thành 3 nhóm để kiến thiết và xây dựng. Năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp được kết tụ tại lõi không gian năm nhóm hạt năng lượng Vũ trụ để tạo thành các phôi năng lượng âm dương để chuyển sinh thành vô số các Tuệ linh. Năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ phức tạp được cấu tạo thành vật chất vận hành Vũ trụ. Năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản đơn được cấu tạo thành vật chất giản đơn để tạo thành các khối thiên hà. Dạng sống Tuệ linh chính là siêu vật chất. Dạng sống Tuệ linh được hình thành từ những hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp và được dưỡng tại lõi của Vũ trụ, thông qua cơ chế phân tách liên kết, quay tròn, tam hợp, giải mã và mã hóa thông tin để chuyển sinh thành Trụ linh và thành các em bé Tuệ linh. Các Tuệ linh được sinh ra đều được vị Tuệ linh đầu tiên dẫn dắt, dạy dỗ và cùng nhau xây dựng Vũ trụ lớn mạnh như ngày Như vậy, dạng sống Tuệ linh được sinh ra từ những hạt năng lượng tận cùng đã được phân tách từ Trụ linh của vị Tuệ linh đầu tiên. Đây là điều dễ hiểu khi các Tuệ linh không có được sức mạnh giải mã thông tin, xử lý thông tin, phát triển cũng như sức mạnh như vị Tuệ linh đầu tiên.

Có thể nói, cội nguồn của dạng sống Tuệ linh được bắt nguồn từ phôi năng lượng âm dương của Vũ trụ. Phôi năng lượng âm dương của Vũ trụ được hình thành từ hai hạt sóng xanh. Năng lượng hoại diệt là nguồn cung nhiệt lượng cho quá trình hình thành, phát triển của Vũ trụ và Tuệ linh.

1.3.  Cội nguồn của con người

Con người là dạng sống vật chất giản đơn. Trong cơ thể con người là tổng hợp của vô số các nhóm cấu trúc tế bào chức năng được phân tách và liên kết tạo thành cơ thể hoàn chỉnh. Đó là da, tóc, xương, mỡ, thịt, máu, gân, mạch, tim, phổi, gan, mắt, tai, mũi, miệng, răng, đầu, thân, chân, tay… Những tế bào chức năng được mã hóa thông tin với sứ mệnh nhiệm vụ riêng để cấu tạo thành con người hoàn chỉnh. Có thể nói, con người là bản thu nhỏ của Vũ trụ. Mỗi tế bào trong cơ thể con người lại được cấu tạo bởi vô số phân tử nhỏ hơn, mỗi phân tử lại được cấu tạo bởi vô số nguyên tử nhỏ hơn, mỗi nguyên tử lại được cấu tạo bởi vô số hạt năng lượng tận cùng có sóng điện âm – dương – trung tính.

Để thấu hiểu hơn về cội nguồn con người, chúng ta cần tìm hiểu một chút về nước. Khi hiểu được điều này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn khoa học và rõ ràng về cội nguồn cũng như sự hình thành của con người. Đó là, biển nước được hình thành từ vô lượng giọt nước, mỗi một giọt nước được hình thành từ vô số phân tử nước, mỗi một phân tử nước lại được hình thành từ hai nguyên tử hiđro và một nguyên tử oxy. Con người không thể nhìn được bằng mắt thường, không sờ thấy được các nguyên tử này bởi chúng quá nhỏ. Tiếp đến, mỗi một nguyên tử oxy hay hiđro lại được hình thành, cấu tạo từ vô số hạt năng lượng tận cùng để tạo ra các hạt năng lượng âm tổng hợp, dương tổng hợp, trung tính tổng hợp. Như vậy, nước được cấu tạo từ vô số các hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản đơn. Các cấu trúc liên kết của những hạt năng lượng tận cùng có sự mã hóa thông tin và có sứ mệnh khác nhau cũng như tế bào của con người vậy. Vậy, khi tế bào con người mổ xẻ tới hạt năng lượng tận cùng thì chúng ta cũng không thể nhìn thấy hay sờ thấy được. Chúng ta chỉ nhìn được những cấu trúc vật chất lớn và tốc độ rung động chậm.

Vậy cội nguồn con người được hành thành như sau:

  • Quá trình dạng sống Tuệ linh được sinh ra, trưởng thành, họ xây dựng, kiến thiết phát triển các dạng sống trong Vũ trụ từ năm nhóm năng lượng sau vụ nổ, chính vì đó mà hình thành Vũ trụ với vô số khối thiên hà như ngày nay. Tuy nhiên, quá trình Vũ trụ phát triển thì dạng sống của năng lượng hoại diệt cũng lớn mạnh vượt bậc về số lượng. Năng lượng hoại diệt xâm nhập vào bên trong Vũ trụ để truy tìm các cấu trúc vật chất có sóng điện âm nhằm xả sóng điện dư thừa. Chính vì các cấu trúc năng lượng âm có bản chất là hút về nên đây là điều năng lượng hoại diệt cần để chúng tự cứu chính chúng. Nếu không xả bỏ sóng điện dư thừa thì chúng sẽ bị kích nổ mà hoại diệt. Trong Vũ trụ hình thành các cơn bão năng lượng hoại diệt. Những cơn bão năng lượng hoại diệt đã làm cho vô số Tuệ linh bị phân rã và hoại diệt khi gặp phải. Không những vậy, các hành tinh, các cấu trúc vật chất trong Vũ trụ cũng bị phân rã khi bị các cơn bão năng lượng hoại diệt càn quét qua. Nguyên nhân dạng sống Tuệ linh bị hoại diệt nhiều là do khả năng giải mã, mã hóa thông tin trong quá trình hình thành và phát triển còn hạn chế nên không có khả năng miễn dịch cũng như chuyển hóa được năng lượng hoại diệt. Chính vì điều đó, dù dạng sống Tuệ linh đã tìm mọi phương pháp để giúp cho chính họ có khả năng miễn dịch cũng như chuyển hóa được năng lượng hoại diệt, nhưng tất cả đều chưa có kết quả. Dạng sống Tuệ linh tồn tại trong một trạng thái an lạc bên trong Vũ trụ nên chưa trải nghiệm đầy đủ các môi trường tương tác khác nhau. Trong khi đó, năng lượng hoại diệt lại tồn tại bên ngoài tinh cầu Vũ trụ. Chính vì điều này, dù dạng sống Tuệ linh có an lạc cũng không đủ khả năng miễn dịch và chuyển hóa năng lượng hoại diệt. Có thể nói, dạng sống Tuệ linh chưa bộc phát được khả năng phản vệ, triệt tiêu năng lượng hoại diệt nên dễ dàng bị phân rã bởi năng lượng hoại diệt.
  • Vị Tuệ linh đầu tiên thấy rõ được những hạn chế của cả dạng sống Tuệ linh: Chưa tương tác trong đầy đủ các môi trường khác nhau, chưa giải mã, mã hóa được đầy đủ các thông tin của vạn vật và các môi trường hoàn chỉnh. Chính vì vậy, vị Tuệ linh đầu tiên cùng dạng sống Tuệ linh đã nghiên cứu và xây dựng môi trường tu hành cho dạng sống Tuệ linh. Môi trường đó phải đảm bảo quy tụ, mô phỏng được các môi trường sóng điện tương tác của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ để Tuệ linh tương tác và giải mã. Đặc biệt, dạng sống Tuệ linh sẽ phải an trụ và hòa nhập trong thân tướng giản đơn để đẩy nhanh tốc độ tương tác cũng như giải mã và mã hóa thông tin chân thật nhất. Tuệ linh sẽ hóa thân thành thân tướng con người để thực hiện hành trình đi tìm con đường tự cứu mình và Vũ trụ. Đó là hành trình đi tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ tại nhân gian.
  • Thời cơ để đưa các Tuệ linh hóa thân làm con người đã chín muồi, sự chín muồi bởi dạng sống muông thú đã được thử nghiệm trước để xem quá trình chuyển sinh có đạt được điều mong muốn của các Tuệ linh không. Khi kết quả đã đạt được chính là thời điểm mà Tuệ linh được tập kết để hóa thân thành con người.
  • Các Tuệ linh hóa thân thành con người được bắt đầu tại các cuộc tập kết ở Trái đất. Vậy Tuệ linh làm thế nào để hóa thành con người? – Các Tuệ linh được tuyển chọn sẽ đều tới Trái đất trong ngày hội chuyển sinh này. Họ vận hành, di chuyển các hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản đơn của năm nhóm hạt năng lượng kết tụ vào cấu trúc Tuệ linh của họ. Những nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ khác nhau được cấu tạo và mã hóa thành những tế bào chức năng khác nhau trong cơ thể con người. Cơ thể con người đã được hợp nhất bởi cấu trúc năng lượng siêu phức tạp của Tuệ linh và cấu trúc năng lượng giản đơn trong Vũ trụ hợp lại. Để cấu tạo thành một con người hoàn chỉnh thì cần vô số năm nhóm hạt năng lượng tận cùng giản đơn kết tụ lại. Đây là lần duy nhất dùng phương pháp này. Sau lần tập kết nhân loại đó, các Tuệ linh luân hồi làm con người sẽ tuân thủ thông qua cơ chế sinh sản của con người.
  • Các muông thú từ trước và sau khi xuất hiện con người đều được hình thành như con người cho từng giống loài. Tuy nhiên, muông thú thay vì Tuệ linh an trụ sẽ là linh hồn (cấu trúc năng lượng phức tạp) an trụ để hợp nhất với các năng lượng giản đơn cấu tạo thành. Sau đó, chúng cũng sẽ tuân thủ sinh sản giống con người để phát triển giống loài đó.
  • Sau này, khi linh hồn các con thú đã phát triển đạt được khả năng làm người bởi quá trình giải mã và mã hóa thông tin, họ sẽ được hóa thân làm con người thông qua quá trình luân hồi và sinh sản.

Như vậy, cội nguồn con người có hai nguồn. Đó là từ dạng sống Tuệ linh và từ linh hồn muông thú hóa thành. Dạng sống Tuệ linh là xuống Trái đất để tu hành. Dạng sống linh hồn của muông thú được con người thuần hóa và giúp chuyển sinh thành con người. Cả hai đang sống cùng nhau mà không nhận biết về nhau.

2.   Cấu trúc của Vũ trụ, Tuệ linh và con người

  • Các nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ

Không gian bên trong và bên ngoài Vũ trụ có 5 nhóm vật chất. Không gian bên ngoài Vũ trụ có 2 nhóm vật chất (nhóm vật chất cội nguồn, nhóm vật chất hoại diệt) và không gian bên trong Vũ trụ có 3 nhóm vật chất (nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu vật chất). Ba nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ từ năm nhóm hạt năng lượng tận cùng sau vụ nổ của tinh cầu năng lượng khổng lồ.

Năm nhóm vật chất bao trùm trong và ngoài Vũ trụ như sau:

  • Nhóm vật chất cội nguồn: Đây là nhóm hạt sóng xanh nõn chuối. Bản chất của loại hạt sóng này là chúng chưa chuyển sinh thành loại hạt năng lượng nào cả. Do quá trình di chuyển và sứ mệnh của chúng mà chúng đã phân tách rồi chuyển sinh thành nhóm vật chất hoại diệt (năng lượng hoại diệt). Đặc biệt là thông qua nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt bị kích nổ, hạt sóng xanh di chuyển vào môi trường đó và chuyển sinh thành phôi năng lượng âm dương. Đó là khởi đầu cho sự hình thành 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ. Chính vì vậy, nhóm hạt sóng xanh được gọi là nhóm vật chất cội nguồn của trong và ngoài Vũ trụ. Nhóm vật chất cội nguồn cùng nhóm vật chất hoại diệt tồn tại trong không gian vô tận bên ngoài tinh cầu Vũ trụ.
  • Nhóm vật chất hoại diệt: Đây là nhóm năng lượng hoại diệt. Nhóm năng lượng hoại diệt là những hạt năng lượng tận cùng được chuyển sinh từ những hạt sóng xanh. Năng lượng hoại diệt do không liên kết để nâng cấp cấu trúc nên chúng chỉ là hạt đơn độc lập hình elip. Bản chất của loại vật chất hoại diệt này là làm phân rã và đồng hóa các cấu trúc vật chất khác. Năng lượng hoại diệt khi bị kích nổ sẽ tạo ra nhiệt lượng lớn và giá trị vô cùng cho quá trình phát triển bền vững của Vũ trụ. Nhóm vật chất hoại diệt cùng nhóm vật chất cội nguồn tồn tại ở không gian vô tận bên ngoài tinh cầu Vũ trụ.
  • Nhóm vật chất giản đơn: Đó là những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính của 5 nhóm hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ giản đơn. Đó là những phôi năng lượng âm dương được liên kết bởi các hạt năng lượng âm dương tận cùng có mã sóng trí tuệ giản đơn. Đó là những cấu trúc Trụ linh trưởng thành với 16 hạt năng lượng âm dương tổng hợp mở rộng mang mã sóng trí tuệ giản đơn. Đó là những cấu trúc Trụ linh có mã sóng trí tuệ giản đơn liên kết lại tạo thành những nguyên tử. Đó là những cấu trúc phân tử được liên kết từ những nguyên tử có mã sóng trí tuệ giản đơn. Đó là những tế bào. Đó là những vật chất rắn, vật chất lỏng, vật chất khí, là cỏ cây, đất đá, kim loại, động vật, con người, muông thú, hành tinh, khối thiên hà, tất cả các khối thiên hà tạo thành hình hài của Vũ trụ.
  • Nhóm vật chất phức tạp: Đó là những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính của 5 nhóm hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ phức tạp. Đó là những cấu trúc phôi năng lượng âm dương có mã sóng trí tuệ phức tạp. Đó là những cấu trúc Trụ linh trưởng thành với 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài có mã sóng trí tuệ phức tạp. Đó là những cấu trúc năng lượng phức tạp trưởng thành – linh hồn an trụ trong cây, trong đất đá, trong muông thú. Đó là những trường năng lượng vận hành sự vận động của Vũ trụ. Nhóm vật chất phức tạp là năng lượng vận hành nhóm vật chất giản đơn.
  • Nhóm siêu vật chất: Đó là những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính của 5 nhóm hạt có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là những cấu trúc phôi năng lượng âm dương có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là những cấu trúc Trụ linh trưởng thành với 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là những cấu trúc Tuệ linh. Đó là những cấu trúc linh hồn được nâng cấp chuyển sinh từ linh hồn muông thú. Đó là các siêu hạt năng lượng (siêu hạt bóng hỏa, siêu hạt vàng óng ánh, siêu hạt xanh ngọc lưu ly, siêu hạt chân tâm) được Tuệ linh phân tách ra nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

Trong 5 nhóm vật chất: Nhóm vật chất cội nguồn (hạt sóng xanh) là cội nguồn chuyển sinh thành tất cả các nhóm vật chất khác. Nhóm vật chất hoại diệt là nhóm vật chất cung ứng nhiệt lượng để cho nhóm vật chất cội nguồn chuyển sinh thành 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ. Nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu vật chất là thành tựu, là tinh hoa của quá trình chuyển sinh từ nhóm vật chất cội nguồn (phôi âm dương được chuyển sinh từ hai hạt sóng xanh). Nhóm siêu vật chất có sứ mệnh là vận hành tất cả các nhóm vật chất hoại diệt, vật chất giản đơn, vật chất phức tạp cùng phát triển bền vững. Để tạo ra sự phát triển bền vững cho các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh là dạng sống của siêu vật chất có sứ mệnh sản sinh ra các siêu hạt năng lượng. Những siêu hạt năng lượng cũng là siêu vật chất. Nó có sứ mệnh duy trì sự tồn tại và phát triển bền vững tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

2.2.  Cấu trúc nền vận hành Vũ trụ

Cấu trúc nền vận hành Vũ trụ chính là một dạng cấu trúc được liên kết giữa các hạt năng lượng tổng hợp với nhau và bao trùm trong toàn bộ không gian trong tinh cầu Vũ trụ.

Cấu trúc nền được liên kết đa chiều bởi vô lượng cấu trúc 16 hạt năng lượng tổng hợp như sau:

Cấu trúc nền bao trùm trong tinh cầu Vũ trụ
Cấu trúc nền bao trùm trong tinh cầu Vũ trụ
  • Trong cấu trúc nền 16 hạt này gồm có 8 hạt năng lượng có sóng điện dương, có 8 hạt năng lượng có sóng điện âm.
  • Tám hạt năng lượng có sóng điện dương sẽ được liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành 8 đỉnh của hình lập phương. Hạt năng lượng chân tâm làm nhiệm vụ liên kết.
  • Tám hạt năng lượng có sóng điện âm sẽ rung lắc tạo thành hạt năng lượng vệ tinh xung quanh 8 hạt năng lượng dương.
  • Hạt năng lượng dương là hạt tổng hợp, được liên kết lại bởi nhiều hạt năng lượng dương tận cùng có sóng điện dương siêu nhẹ. Do các hạt năng lượng dương tận cùng có sóng điện dương siêu nhẹ, tốc độ quay thuận chiều kim đồng hồ nhẹ nên khi hợp lại thành hạt tổng hợp, sóng điện dương của hạt tổng hợp cũng là siêu nhẹ. Màu của trạng thái năng lượng hạt dương tổng hợp là màu trắng đục ngà.
  • Hạt năng lượng âm là hạt tổng hợp, được liên kết lại bởi nhiều hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện âm siêu nhẹ. Do các hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện âm siêu nhẹ, tốc độ quay ngược chiều kim đồng hồ nhẹ nên khi hợp lại thành hạt tổng hợp, sóng điện âm của hạt tổng hợp cũng là siêu nhẹ. Màu của trạng thái năng lượng hạt âm tổng hợp là màu trắng xám.

Trong cấu trúc nền này, mỗi hạt năng lượng âm làm nhiệm vụ rung lắc để thu hút tín hiệu cho dạng vật chất phức tạp và siêu vật chất nhận diện được điểm đến, tức là nhận diện được đích tới. Mỗi hạt năng lượng dương làm địa điểm để tới và đồng thời làm nhiệm vụ đẩy, chuyển nối tiếp thông tin đi trong cấu trúc nền. Có thể hiểu rằng, cấu trúc nền có tác dụng: Hạt năng lượng dương là đẩy chuyển tiếp thông tin, hạt chân tâm là đường truyền, còn hạt năng lượng âm là tín hiệu thu hút để vật chất phức tạp và siêu vật chất di chuyển trong khắp không gian Vũ trụ.

Cấu trúc nền có trung tâm là ở lõi của Vũ trụ, đó là nơi dạng sống Tuệ linh (siêu vật chất) an trụ. Từ đó, cấu trúc 16 hạt sẽ được phân tách thành vô lượng cấu trúc 16 hạt như vậy từ trung tâm ra các chiều không gian. Sự phân tách và liên kết vô tận đó đã bao trùm toàn bộ tinh cầu Vũ trụ.

Tất cả dạng vật chất giản đơn, dạng vật chất phức tạp và dạng siêu vật chất đều tồn tại, sống trong cấu trúc nền này. Sự di chuyển thành quỹ đạo của các hành tinh, của các hệ mặt trời, của các dải thiên hà, của các khối thiên hà, của cả toàn bộ Vũ trụ đều dựa trên cấu trúc nền này. Năm nhóm năng lượng của vật chất phức tạp và các siêu hạt năng lượng sẽ di chuyển trong cấu trúc nền này để liên kết tới các hành tinh, vật chất, toàn bộ Vũ trụ để vận hành toàn bộ Vũ trụ vận động theo quỹ đạo nhất định, đó là quỹ đạo quay tròn. Dạng sống Tuệ linh (siêu vật chất) sẽ phân tách hạt năng lượng di chuyển trong cấu trúc nền, vận hành năng lượng trong cấu trúc nền này để xây dựng sự phát triển, tồn tại cho Vũ trụ.

Tuệ linh, Linh hồn cũng phải thông qua cấu trúc nền mới có thể di chuyển được trong Vũ trụ. Bởi cấu trúc nền sẽ giúp cho Tuệ linh, Linh hồn xác định được phản hồi tín hiệu dựa trên các hạt năng lượng âm trong cấu trúc. Di chuyển tới điểm đến được chính xác cũng như dễ dàng vì có các hạt năng lượng dương và liên kết của chúng.

Các hạt năng lượng trong cấu trúc nền có mã sóng trí tuệ phức tạp. Do đó, con người không thể nhìn thấy bằng mắt thường.

Cấu trúc nền được vị Tuệ linh đầu tiên và dạng sống Tuệ linh xây dựng để vận hành được tất cả các dạng sống trong tinh cầu Vũ trụ được dễ dàng. Để việc vận hành Vũ trụ dễ dàng, để việc truyền tải sóng điện, truyền tải năng lượng, truyền tải thông tin được dễ dàng thì đó chính là lý do mà vị Tuệ linh đầu tiên cùng dạng sống Tuệ linh kiến tạo cấu trúc nền chỉ là những hạt năng lượng chớm sóng điện âm và chớm sóng điện dương.

2.3.  Cấu trúc Tam hợp của Vũ trụ

Tinh cầu Vũ trụ được cấu tạo bởi 3 nhóm vật chất, đó là nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật chất. Ba nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ được gọi là cấu trúc tam hợp của Vũ trụ. Tức là ba cấu trúc này tồn tại hợp nhất với nhau mà không tách rời, tồn tại trong nhau, nương tựa nhau để cùng phát triển bền vững.

Tam hợp của Vũ trụ như sau:

  • Nhóm vật chất giản đơn với vô số các khối thiên hà được sắp xếp tầng tầng lớp lớp từ không gian lõi bao trùm toàn bộ tinh cầu Vũ trụ khổng lồ. Đây là hình tướng của Vũ trụ.
  • Năm nhóm năng lượng và các siêu hạt năng lượng được vận hành từ không gian lõi của Vũ trụ lan tỏa tạo thành những tia năng lượng được liên kết dây tới tất cả các hành tinh, các khối thiên hà của toàn bộ Vũ trụ. Nhiệm vụ của năm nhóm năng lượng và các siêu năng lượng là an trụ trong toàn bộ hình tướng của Vũ trụ để thúc đẩy hình tướng được phân tách và giãn nở theo hướng bền vững; tiếp theo là vận hành hình tướng Vũ trụ quay tròn để sinh nhiệt, kích nổ được năng lượng hoại diệt cũng như giúp cho hình tướng Vũ trụ phân tách liên kết bền vững.
  • Trí tuệ của Vũ trụ chính là dạng sống Tuệ linh. Dạng sống Tuệ linh được gọi là trí tuệ của cả Vũ trụ. Dạng sống Tuệ linh vận hành nhóm vật chất phức tạp để giúp cho hình tướng Vũ trụ được hình thành và phát triển bền vững.

Ba nhóm vật chất này tồn tại trong nhau, nương tựa nhau để phát triển trong sự không thể tách rời. Nhóm siêu vật chất và Tuệ linh muốn tồn tại và phát triển phải nương tựa nhóm vật chất giản đơn. Nhóm vật chất giản đơn muốn tồn tại và phát triển được phải nhờ có nhóm siêu vật chất, Tuệ linh vận hành và được nhóm vật chất phức tạp an trụ. Nhóm vật chất phức tạp muốn tồn tại và phát triển được phải có nhóm siêu vật chất, Tuệ linh vận hành và được an trụ trong nhóm vật chất giản đơn.

2.4.  Cấu trúc Vũ trụ quay tròn

Cả tinh cầu Vũ trụ đều vận động quay tròn. Cụ thể như sau:

  • Hạt năng lượng tận cùng của cả 3 nhóm vật chất cấu

tạo thành Vũ trụ (giản đơn, phức tạp và siêu phức tạp) đều vận động quay tròn xung quanh chính nó. Hạt năng lượng âm quay ngược chiều kim đồng hồ, hạt năng lượng dương quay thuận chiều kim đồng hồ. Mỗi hạt năng lượng tận cùng vận động quay tròn để tạo thành cơ chế liên kết dây. Có cơ chế liên kết dây mới cấu tạo thành các cấu trúc vật chất có trí tuệ và độ phức tạp cao hơn.

  • Phôi năng lượng âm dương của cả 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ đều vận động quay tròn. Đó là sóng điện âm dương trong phôi năng lượng tuần hoàn với nhau để thực hiện quá trình giải mã và mã hóa thông tin. Khi đủ lượng thông tin sẽ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết các hạt năng lượng.
  • Trụ linh và các cấu trúc như con người, muông thú, Tuệ linh, linh hồn, cây cối, đất đá… đều vận động quay tròn. Đó là trạng thái năng lượng, sóng điện dương tuần hoàn trong toàn bộ cấu trúc dựa trên đường truyền chân tâm. Quá trình quay tròn tuần hoàn sóng điện dương sẽ phải thông qua hệ thống hạt năng lượng âm rung lắc tại mỗi điểm cụm hạt năng lượng âm dương trong cấu trúc. Việc từ Trụ linh cho tới Tuệ linh, con người, muông thú, cỏ cây, linh hồn, đất đá… vận động tuần hoàn sóng điện âm dương sẽ giúp cho toàn bộ cấu trúc giải mã và mã hóa thông tin đầy đủ cho quá trình phân tách và liên kết hạt năng lượng. Bên cạnh đó, việc tuần hoàn sóng điện sẽ giúp cho cấu trúc đó có nhiệt lượng dương để phân tách liên kết theo hướng bền vững.
  • Các hành tinh đều vận động quay tròn. Mỗi hành tinh đều có cấu trúc sóng điện âm, dương, trung tính, đặc biệt lại được sự vận hành từ dạng sống Tuệ linh và năng lượng phức tạp nên các hành tinh quay tròn xung quanh chính nó để làm nhiệm vụ chuyển hóa năng lượng hoại diệt thành nhiệt lượng lớn cho quá trình phân tách giãn nở của các hành tinh.
  • Hệ mặt trời đều vận động quay tròn. Đó là các hành tinh có đa sóng điện âm sẽ quay tròn xung quanh mặt trời. Mỗi hành tinh đều quay tròn xung quanh chính nó và quay tròn xung quanh hệ mặt trời là do dạng sống Tuệ linh vận hành năng lượng phức tạp tạo thành. Khi các hành tinh đa sóng điện âm quay tròn xung quanh hệ mặt trời sẽ tạo thành ngày đêm, ban đêm sẽ đa năng lượng âm để thu hút năng lượng hoại diệt, ban ngày sẽ đón được sóng điện dương của mặt trời để ngủ đông hoặc kích nổ năng lượng hoại diệt. Hệ mặt trời quay tròn nhằm nhiệm vụ chuyển hóa năng lượng hoại diệt thành nhiệt lượng dương cho quá trình giãn nở và phát triển bền vững của Vũ trụ.
  • Các dải thiên hà đều vận động quay tròn xung quanh nó trong mỗi khối chứa đựng các dải thiên hà. Cả tinh cầu khổng lồ với vô số khối thiên hà được sắp xếp tầng tầng lớp lớp từ trong lõi ra ngoài đều vận động quay tròn xung quanh lõi của Vũ trụ. Tinh cầu Vũ trụ quay tròn nhằm tạo ra nhiệt lượng cho quá trình duy trì sự tồn tại, sinh nhiệt để thực hiện được cơ chế phân tách và liên kết bền vững. Đặc biệt, việc vận động quay tròn sẽ tuần hoàn được năng lượng khắp Vũ trụ, sẽ giúp chuyển hóa năng lượng hoại diệt thành nhiệt lượng giúp cho toàn bộ 3 dạng vật chất trong Vũ trụ đều phát triển bền vững. Hệ thống cấu trúc năng lượng âm, vật chất đa âm trong Vũ trụ sẽ làm nhiệm vụ rung lắc để thu hút năng lượng hoại diệt xâm nhập vào, tiếp đó là hệ thống năng lượng dương, cấu trúc vật chất đa dương sẽ tỏa sóng điện dương để kích nổ năng lượng hoại diệt.

Như vậy, cấu trúc Vũ trụ vận động quay tròn chính là nhà máy khổng lồ hấp thụ năng lượng hoại diệt để kích nổ và chuyển hóa nhiệt lượng cho quá trình tồn tại, phát triển bền vững. Trong nhà máy khổng lồ đó, mỗi con người, Tuệ linh, cỏ cây, linh hồn, đất đá, Trụ linh, phôi năng lượng âm dương đều là những nhà máy nhỏ để chuyển hóa năng lượng hoại diệt. Những cấu trúc, dạng sống nào chưa chuyển hóa, chưa vận hành được cơ chế chuyển hóa sẽ phải học cách để chuyển hóa, đó là học cách chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Đây là điều mà dạng sống Tuệ linh đang tu hành trong thân tướng con người để học và chuyển hóa được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, để chuyển hóa được năng lượng hoại diệt thành các siêu năng lượng tốt cho sự phát triển của cả Vũ trụ.

2.5.  Cấu trúc Vũ trụ đều là thông tin

Vũ trụ có 3 nhóm vật chất là giản đơn, phức tạp và siêu vật chất. Ba nhóm vật chất này đều được cấu tạo từ hạt năng lượng tận cùng. Trong mỗi hạt năng lượng tận cùng lại có sợi mã sóng trí tuệ và nhiệt lượng được lưu giữ bên trong. Sợi mã sóng trí tuệ chính là sợi lưu giữ thông tin được giải mã và mã hóa trong quá trình vận động. Như vậy, cả Vũ trụ đều là thông tin. Vũ trụ chứa đựng lượng thông tin vô cùng vĩ đại. Tuệ linh, con người… đều là cấu trúc chứa đựng khối lượng thông tin vô cùng lớn.

Thông tin của Vũ trụ được phân chia theo cấp độ từ giản đơn cho tới phức tạp và siêu phức tạp:

  • Thông tin giản đơn chính là nhóm vật chất giản đơn. Thông tin giản đơn vì sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng tận cùng có nhịp rung động giản đơn và chậm. Chính vì nhịp sóng rung động giản đơn và chậm nên nó chỉ ghi, lưu giữ được lượng thông tin ít và giản đơn trong sợi. Vì thông tin giản đơn nên nhóm vật chất giản đơn không tự di chuyển được mà phải nhờ tới nhóm vật chất phức tạp và siêu phức tạp.
  • Thông tin phức tạp chính là nhóm vật chất phức tạp. Thông tin phức tạp vì sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng tận cùng có nhịp rung động mạnh, nhiều nhịp và phức tạp. Chính vì thế, sợi mã sóng trí tuệ ghi, lưu giữ được lượng lớn thông tin và có độ phức tạp lớn trong sợi. Vì thông tin phức tạp nên nhóm vật chất phức tạp có khả năng vận hành và thúc đẩy Vũ trụ phát triển.
  • Thông tin siêu phức tạp hay còn gọi là siêu thông tin. Thông tin siêu phức tạp là của dạng sống Tuệ linh và siêu vật chất. Thông tin siêu phức tạp vì sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng tận cùng đã ghi, lưu giữ được lượng thông tin khổng lồ và vô cùng phức tạp bởi nhịp rung động của mã sóng trí tuệ siêu nhanh và nhiều. Chính vì có siêu thông tin trong sợi mã sóng trí tuệ nên dạng sống Tuệ linh, siêu vật chất có siêu trí tuệ nhất Vũ trụ, có khả năng di chuyển và vận hành cả Vũ trụ.

Thông tin của Vũ trụ được chia theo đặc tính tốt và độc hại:

  • Thông tin có đặc tính tốt chính là thông tin được lưu

giữ trong sợi mã sóng trí tuệ của các hạt năng lượng dương. Gọi là thông tin tốt bởi vì trong hạt chứa đựng nhiệt lượng, thông tin tích cực để giúp cho vạn vật trong Vũ trụ phát triển bền vững. Nguyên nhân là thông tin tốt vì sợi mã sóng trong hạt năng lượng dương rung động sinh nhiệt dương để kích nổ được năng lượng hoại diệt, để phát triển cấu trúc liên kết bền vững.

  • Thông tin có đặc tính độc hại là thông tin được lưu giữ trong sợi mã sóng trí tuệ của các hạt năng lượng âm. Gọi là thông tin độc hại bởi vì trong hạt chứa đựng nhiệt lượng, thông tin tiêu cực gây phân rã cấu trúc. Nguyên nhân là thông tin độc hại vì sợi mã sóng trong hạt năng lượng âm không kiểm soát được sóng rung động, sẽ dẫn tới việc năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu và di chuyển tới để gây phân rã cấu trúc.

Thông tin của Vũ trụ được phân chia theo nhiệm vụ thu, phát và đường truyền tín hiệu:

  • Hệ thống hạt năng lượng âm trong toàn bộ vật chất của Vũ trụ có nhiệm vụ thu tín hiệu, hút tín hiệu thông tin di chuyển tới cấu trúc.
  • Hệ thống hạt năng lượng dương trong toàn bộ vật chất của Vũ trụ có nhiệm vụ đẩy chuyển tiếp thông tin di chuyển.
  • Hệ thống hạt năng lượng chân tâm (trung tính) trong toàn bộ vật chất của Vũ trụ có nhiệm vụ làm đường truyền liên kết giữa các hạt năng lượng dương để thông tin được di chuyển.

Như vậy, toàn bộ Vũ trụ là thông tin. Thông tin có độ phức tạp khác nhau, có đặc tính tốt và độc hại khác nhau, có nhiệm vụ khác nhau. Vấn đề là vận hành cũng như kiểm soát thông tin làm sao để Vũ trụ, Tuệ linh, con người phát triển theo hướng bền vững.

2.6.  Cấu trúc Tuệ linh

Cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh chính là cấu trúc tam hợp mà thành Tuệ linh.

Tam hợp yếu tố hợp thành Tuệ linh gồm có Trụ – Trí (tổng sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh), Trụ – Tâm (trạng thái năng lượng, sóng điện trong Trụ linh), hình tướng Tuệ linh. Để thấu hiểu 3 yếu tố cấu tạo thành Tuệ linh, chúng ta cần thấu hiểu quá trình hình thành, phát triển của Tuệ linh như sau: đầu tiên là phôi năng lượng âm dương được liên kết lại từ hạt năng lượng âm và dương tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Khi phôi năng lượng âm dương được hình thành, gọi là Trụ linh gốc. Trụ linh gốc có chứa đựng hai sợi mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Thông qua cơ chế phân tách và liên kết dây của hạt năng lượng, Trụ linh phân tách ra những sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và dương. Những sợi mã sóng trí tuệ đó được chứa đựng ở Trụ linh gốc. Tiếp đến, những sợi mã sóng trí tuệ đó phân tách thành những hạt năng lượng ra bên ngoài Trụ linh gốc và được cấu tạo thành thái cực chứa đựng hạt năng lượng âm và dương. Trụ linh gốc liên tục phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ lưu giữ trong Trụ linh gốc và thành hạt năng lượng ra thái cực bên ngoài Trụ linh gốc để tạo thành Trụ linh trưởng thành. Như vậy, Trụ linh trưởng thành gồm có Trụ linh gốc bên trong là nơi chứa đựng các sợi mã sóng trí tuệ, hai thái cực năng lượng âm và dương bên ngoài lưu giữ các hạt năng lượng tận cùng được sao chép từ các sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc. Sau khi đã tạo ra được nhiều sợi mã sóng trí tuệ ở Trụ linh gốc và nhiều hạt năng lượng tận cùng ở thái cực chứa đựng các hạt năng lượng, sẽ diễn ra quá trình liên kết và phân tách tiếp. Đó là các hạt năng lượng tận cùng trong thái cực âm, dương liên kết với chính nó để tạo thành những hạt dương tổng hợp và những hạt âm tổng hợp rồi di chuyển ra bên ngoài Trụ linh để cấu tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng tổng hợp mở rộng bên ngoài Trụ linh. Cấu trúc Trụ linh với 16 hạt năng lượng càng được mở rộng đa chiều ra bên ngoài chính là việc Tuệ linh hình thành (khi cấu trúc Trụ linh có 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài) Tuệ linh em bé và Tuệ linh trưởng thành. Trong cấu trúc Tuệ linh gồm có 3 loại hạt năng lượng là âm, dương, trung tính được liên kết với nhau tạo thành cấu trúc năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp tuần hoàn sóng điện. Vậy tam hợp cấu trúc Tuệ linh cụ thể là:

Hình: Cấu tạo tam hợp Tuệ linh

  • Yếu tố đầu tiên là Trụ – Trí: Trụ – Trí là tổng các sợi mã sóng trí tuệ được lưu giữ tại Trụ linh gốc (hạt âm và hạt dương gốc) cho tới toàn bộ cấu trúc Tuệ linh. Gọi là Trụ – Trí là để thể hiện được bản chất là trong Trụ linh gốc lưu giữ toàn bộ tổng các sợi mã sóng trí tuệ từ khi Tuệ linh đó được hình thành từ phôi năng lượng âm dương cho tới khi trưởng thành và tới thời điểm đề cập tới. Từ tổng các sợi mã sóng trong Trụ linh gốc sẽ sinh phát ra trạng thái năng lượng và tuần hoàn sóng điện năng lượng đó trong toàn bộ cấu trúc Tuệ linh thông qua các sợi mã sóng trí tuệ bên ngoài Trụ linh.
  • Yếu tố thứ 2 là Trụ – Tâm: Trụ là tổng các sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc; Tâm là trạng thái năng lượng, là sóng điện được sinh phát, lưu giữ trong Trụ linh gốc và hạt năng lượng. Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện được sinh phát ra từ Trụ linh gốc (nơi lưu giữ tổng các sợi mã sóng trí tuệ) liên kết, tuần hoàn tới thái cực chứa đựng các hạt năng lượng âm dương và tới toàn bộ cấu trúc hạt năng lượng trong toàn bộ Tuệ linh.
  • Yếu tố thứ 3, là hình tướng Tuệ linh: Tuệ linh có hình tướng giống con người, hay nói cách khác thì con người là bản sao của các Tuệ linh. Tuệ linh là một cấu trúc liên kết của vô số những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Do đó, Tuệ linh có thể biến hóa thay đổi hình tướng, thay đổi diện mạo. Cấu trúc hình tướng của Tuệ linh sẽ thay đổi do cấu trúc sóng điện trong Trụ linh của Tuệ linh thay đổi. Đặc tính sóng điện trong Trụ linh gồm có sóng điện dương, có sóng điện âm, có sóng điện trung tính để trung hòa sóng điện âm dương. Cấu trúc vững chắc của Trụ linh chính là Trụ linh trở thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Cấu trúc Trụ linh lỏng lẻo dễ bị hoại diệt Tuệ linh là cấu trúc Trụ linh có sóng điện đa âm.

Khi gọi hay nhắc tới Trụ linh, chúng ta hiểu đó là bao gồm Trụ – Trí và Trụ – Tâm.

Thông qua cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh, ta thấy trí tuệ của dạng sống Tuệ linh là siêu việt nhất, tinh hoa nhất của tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ. Chính vì vậy, sứ mệnh cải tạo bộ lọc trong Trụ linh để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng là sứ mệnh tiên phong của họ.

2.7.  Cấu trúc con người

Cấu trúc cấu tạo thành con người chính là tam hợp cấu tạo thành con người.

Ba yếu tố hợp nhất cấu tạo ra con người gồm có, Thân

tướng, Tâm (Tuệ linh), Trí tuệ:

Cấu tạo tam hợp con người
Cấu tạo tam hợp con người
  • Yếu tố đầu tiên là Thân tướng: Thân tướng được hình thành do duyên người cha và người mẹ. Đó là tinh trùng mang tính dương của người cha và trứng mang tính âm của người mẹ hợp thành phôi thai. Phôi thai nhi sẽ trưởng thành trong bụng người mẹ do cơ chế phân tách tế bào bởi năng lượng, dinh dưỡng và nhiệt độ của người mẹ. Trải qua quãng thời gian khoảng 9 tháng, khi thân tướng em bé đã hoàn thiện, em bé được sinh ra, cất tiếng khóc chào đời.
  • Yếu tố thứ hai là Tâm: Tâm là trạng thái năng lượng an trụ trong thân tướng để tạo ra, duy trì sự sống cho con người. Khi người mẹ mang thai đến tháng thứ 7, theo luật luân hồi của Hội đồng Tuệ linh thì sẽ có một Tuệ linh được xuống luân hồi đầu thai hoặc Tuệ linh tiếp tục đầu thai sau khi trải qua các kiếp sẽ đi theo bảo vệ bà mẹ và em bé. Hoặc là Linh hồn của muông thú được thuần hóa sau nhiều kiếp là thú lành và giúp đỡ con người, họ sẽ được Hội đồng Tuệ linh giáo hóa và cho đi theo bảo vệ bà mẹ và thai nhi để thiết nhập đầu thai. Khi em bé chào đời và cất tiếng khóc thì đó là dấu hiệu Tuệ linh hay Linh hồn thiết nhập vào để duy trì sự sống cho thân tướng. Theo luật luân hồi, để Linh hồn của các con thú được phép đầu thai làm con người thì chúng phải được thuần hóa bởi con người; chúng phải giúp đỡ và làm được nhiều việc có lợi ích cho con người; những việc lợi ích đó tạo thành năng lượng dương có sự cân bằng sóng điện âm dương; khi có năng lượng dương và có sự cân bằng sóng điện âm dương mới được phép đầu thai làm người, và mới có đủ năng lượng duy trì sự sống một kiếp người. Tuy nhiên, nhiều linh hồn thú dữ không muốn tuân theo luật luân hồi, nên chúng đi tác động giết hại con người, hấp thụ năng lượng dương để đủ sức mạnh đầu thai trộm; nếu chúng đầu thai trộm thành người thành công, lớn lên chúng sẽ có thiên hướng giết hại, làm điều ác. Nếu linh hồn thú dữ chưa giết hại được người nào mà đầu thai trộm được thì dễ chết yểu do không đủ năng lượng âm dương cân bằng để duy trì sự sống. Khi Tuệ linh hay Linh hồn được đi đầu thai, họ sẽ được chọn quốc gia, dân tộc, dòng họ, cha mẹ để người cha mẹ được gieo duyên có thân tướng thai nhi. Phải đến tháng thứ 7 thì Tuệ linh, Linh hồn mới đi theo để chờ ngày sinh. Vì ở tháng thứ 7, nếu em bé có sinh non thì vẫn đảm bảo sống được, ở tháng thứ 7 người mẹ không thể phá thai được. Như vậy, tháng thứ 7 là đảm bảo điều kiện an toàn cho các Tuệ linh, Linh hồn đi đầu thai được thành công, còn em bé trong bụng mẹ sẽ được Tuệ linh người mẹ bảo vệ và nuôi dưỡng. Dù là Tuệ linh hay Linh hồn khi đầu thai vào con người đều được gọi là Tâm.
  • Yếu tố thứ 3 là Trí tuệ. Sau khi Tuệ linh hoặc Linh hồn thiết nhập vào em bé vừa chào đời để tạo ra năng lượng duy trì sự sống cho em bé, em bé đó trải qua quá trình lớn lên, học tập, nghiên cứu, lao động, mưu sinh sẽ phát triển tư duy trí tuệ, đúc kết các kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xử lý và cải tạo thế giới quan được gọi là Trí tuệ. Bản chất trí tuệ hiện kiếp của con người được phát triển từ hai phần:

+ Phần thứ nhất là trí tuệ từ tổ hợp mã sóng trí tuệ trong Trụ linh phát ra não bộ. Đây gọi là kinh nghiệm tiền kiếp, cội nguồn. Lượng sợi mã sóng trí tuệ sẽ phát ra tương ứng với sự trưởng thành của con người. Khi còn bé, Trụ linh sẽ phát ra ít lượng sợi trí tuệ. Khi trưởng thành, Trụ linh sẽ phát ra nhiều lượng sợi mã sóng trí tuệ để não bộ nhận diện và có khả năng trau dồi thêm trí tuệ hiện kiếp để cải tạo Trụ linh bền vững hơn.

+ Phần thứ hai là thông qua tương tác bởi tai, mắt, mũi, miệng, xúc giác với các Tướng. Những thông tin đó được mã hóa thành sóng điện ở não bộ và truyền vào Tuệ linh. Trụ linh sẽ giải mã và thông qua hành động của thân tướng để phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh. Từ Trụ linh, các sợi mã sóng trí tuệ đó lại phân tách ra não bộ. Phần này là do hiện kiếp có được bởi quá trình tương tác giữa các tướng với nhau.

Như vậy, trí tuệ của Tuệ linh là siêu trí tuệ lại an trụ, hợp nhất với trí tuệ giản đơn của con người. Điều này giúp cho con người có được siêu trí tuệ an trụ trong cơ thể. Siêu trí tuệ sẽ liên kết để truyền và trau dồi trí tuệ ở não bộ thông qua môi trường tu hành ở nhân gian.

3.   Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của 5 nhóm vật chất và Tuệ linh

Không chỉ có các nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ là thông tin. Các nhóm vật chất bên ngoài Vũ trụ cũng là thông tin.

Giải mã thông tin là quá trình phân tích về bản chất của các cấu trúc vật chất xung quanh, môi trường sóng điện xung quanh trong quá trình tương tác.

Mã hóa thông tin là quá trình hấp thụ sóng điện từ môi trường xung quanh, là quá trình ghi lại, là quá trình lưu giữ thông tin của quá trình tương tác vào sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng.

Trong thông tin lại có đặc tính độc và tốt khác nhau, có nhiệm vụ khác nhau, có độ phức tạp khác nhau. Tất cả những đặc tính, nhiệm vụ, độ phức tạp của thông tin đều được cấu tạo thành bởi quá trình giải mã và mã hóa thông tin của năm nhóm vật chất.

3.1.   Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của nhóm vật chất cội nguồn

Nhóm vật chất cội nguồn là nhóm hạt sóng xanh nõn chuối.

Bản chất của hạt sóng xanh là chưa xảy ra quá trình

giải mã và mã hóa thông tin.

Nguyên nhân:

  • Hạt sóng xanh chưa vận động đủ để sinh nhiệt và biến đổi thành sợi mã sóng trí tuệ. Chưa có sợi mã sóng trí tuệ nên chưa giải mã và mã hóa được thông tin.
  • Môi trường trung tính và di chuyển thẳng làm cho hạt sóng xanh chưa biến đổi thành sợi mã sóng trí tuệ để giải mã và mã hóa thông tin.
  • Sứ mệnh của hạt sóng xanh là chuyển hóa thành các loại năng lượng nên nó chỉ giải mã và mã hóa thông tin khi nó chuyển hóa thành các loại năng lượng trong điều kiện đảm bảo.

3.2.   Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của nhóm vật chất hoại diệt

Nhóm vật chất hoại diệt là nhóm năng lượng hoại diệt.

Bản chất nhóm năng lượng hoại diệt giải mã và mã hóa thông tin chưa hoàn chỉnh.

Nguyên nhân:

  • Hạt sóng xanh di chuyển, vận động trong thời gian dài ở môi trường trung tính nên nó chưa biến đổi thành sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh. Tuy là đã biến đổi thành hạt năng lượng hoàn chỉnh nhưng nhiệt lượng chưa được giải phóng hết nên việc giải mã và mã hóa thông tin cũng không hoàn chỉnh.
  • Hạt sóng xanh di chuyển thẳng và không quay tròn trong môi trường trung tính nên hạt năng lượng hoại diệt không giải mã cũng như mã hóa được đầy đủ thông tin.

Hạt năng lượng hoại diệt được hình thành trong môi trường trung tính và không quay tròn. Do đó, trong quá trình vận động đã không giải mã và mã hóa được đầy đủ thông tin. Đó là năng lượng hoại diệt không giải mã và mã hóa được thông tin của môi trường có sóng điện âm, dương.

3.3.   Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của nhóm vật chất giản đơn

Nhóm vật chất giản đơn là các hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản đơn cho tới các nguyên tử, phân tử, tế bào, cỏ cây, đất đá, con người, muông thú, hành tinh, dải thiên hà, khối thiên hà, tinh cầu Vũ trụ.

Bản chất nhóm vật chất giản đơn đã giải mã và mã hóa được thông tin tốt hơn nhóm vật chất hoại diệt. Giải mã và mã hóa thông tin tốt hơn vì đã biến đổi được thành sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh và có cơ chế liên kết dây. Tuy nhiên, xét trong toàn bộ trong và ngoài Vũ trụ thì việc giải mã và mã hóa thông tin vẫn chưa hoàn chỉnh.

Nguyên nhân:

  • Nhóm vật chất giản đơn giải mã và mã hóa thông tin tốt hơn nhóm vật chất hoại diệt vì quá trình vận động có quay tròn trong môi trường có sóng điện âm hoặc dương. Đây chính là điều mà năng lượng hoại diệt không có. Vì giải mã và mã hóa thông tin tốt hơn năng lượng hoại diệt nên vật chất giản đơn mới liên kết để phát triển cấu trúc vật chất lớn hơn.
  • Nhóm vật chất giản đơn giải mã và mã hóa thông tin chưa hoàn chỉnh vì nhóm vật chất này tồn tại trong môi trường không có năng lượng hoại diệt nên không giải mã được năng lượng hoại diệt. Chính vì vậy thông tin được giải mã và mã hóa chưa hoàn chỉnh khi xét trong và ngoài Vũ trụ.
  • Nhóm vật chất giản đơn giải mã và mã hóa thông tin chưa được bằng nhóm vật chất phức tạp và siêu vật chất. Nguyên nhân bởi mã sóng rung động trong hạt năng lượng của chúng rất giản đơn. Vì giản đơn nên quá trình vận động để giải mã và mã hóa thông tin cần có siêu vật chất cũng như vật chất phức tạp vận hành, tức là bị phụ thuộc trong quá trình giải mã và mã hóa thông tin.

3.4.   Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của nhóm vật chất phức tạp

Nhóm vật chất phức tạp là các hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ phức tạp cho tới những tầng năng lượng vận hành Vũ trụ, các linh hồn an trụ trong thân cây, trong muông thú và đất đá.

Bản chất nhóm vật chất phức tạp đã giải mã và mã hóa được thông tin tốt hơn nhóm vật chất hoại diệt và nhóm vật chất giản đơn. Giải mã và mã hóa thông tin tốt hơn vì đã biến đổi được thành sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh ở mức độ phức tạp và có cơ chế liên kết dây. Tuy nhiên, xét trong toàn bộ trong và ngoài Vũ trụ thì việc giải mã và mã hóa thông tin vẫn chưa hoàn chỉnh.

Nguyên nhân:

  • Nhóm vật chất phức tạp giải mã và mã hóa thông tin tốt hơn nhóm vật chất hoại diệt vì quá trình vận động có quay tròn trong môi trường có sóng điện âm hoặc dương. Đây chính là điều mà năng lượng hoại diệt không có. Vì giải mã thông tin tốt hơn năng lượng hoại diệt nên vật chất phức tạp mới liên kết để phát triển cấu trúc vật chất lớn hơn.
  • Nhóm vật chất phức tạp giải mã và mã hóa thông tin chưa hoàn chỉnh vì nhóm vật chất này tồn tại trong môi trường không có năng lượng hoại diệt nên không giải mã được năng lượng hoại diệt. Chính vì vậy thông tin được giải mã và mã hóa chưa hoàn chỉnh khi xét trong và ngoài Vũ trụ.
  • Nhóm vật chất phức tạp giải mã và mã hóa thông tin tốt hơn nhóm vật chất giản đơn. Nguyên nhân vì sợi mã sóng trí tuệ của năng lượng phức tạp có tốc độ, nhịp rung lớn và phức tạp hơn năng lượng giản đơn. Chính vì điều này mà nhóm vật chất phức tạp tự di chuyển để giải mã và mã hóa thông tin tốt hơn nhóm vật chất giản đơn.
  • Nhóm vật chất phức tạp giải mã và mã hóa thông tin chưa được bằng nhóm siêu vật chất. Nguyên nhân bởi mã sóng rung động trong hạt năng lượng của chúng mới chỉ là phức tạp. Trong khi đó, nhóm siêu vật chất có mã sóng rung động, nhịp rung, tốc độ đạt siêu phức tạp. Chính vì điều này mà nhóm vật chất phức tạp mã hóa và giải mã thông tin chưa tốt bằng nhóm siêu vật chất.

3.5.   Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của nhóm siêu vật chất

Nhóm siêu vật chất là các hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp cho tới Tuệ linh và các siêu hạt năng lượng.

Bản chất nhóm siêu vật chất đã giải mã và mã hóa được thông tin tốt nhất trong 5 nhóm vật chất. Giải mã và mã hóa thông tin tốt nhất vì đã biến đổi được thành sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh ở mức độ siêu phức tạp và có cơ chế liên kết dây. Tuy nhiên, xét trong toàn bộ trong và ngoài Vũ trụ thì việc giải mã và mã hóa thông tin vẫn chưa hoàn chỉnh.

Nguyên nhân:

  • Nhóm siêu vật chất giải mã và mã hóa thông tin tốt hơn nhóm vật chất hoại diệt vì quá trình vận động có quay tròn trong môi trường có sóng điện âm hoặc dương. Đây chính là điều mà năng lượng hoại diệt không có. Vì giải mã thông tin tốt hơn năng lượng hoại diệt nên nhóm siêu vật chất mới liên kết để phát triển cấu trúc siêu vật chất lớn hơn.
  • Nhóm siêu vật chất giải mã và mã hóa thông tin chưa hoàn chỉnh vì nhóm vật chất này tồn tại trong môi trường không có năng lượng hoại diệt nên không giải mã được năng lượng hoại diệt. Chính vì vậy thông tin được giải mã và mã hóa chưa hoàn chỉnh khi xét trong và ngoài Vũ trụ.
  • Nhóm siêu vật chất giải mã và mã hóa thông tin tốt hơn nhóm vật chất phức tạp và nhóm vật chất giản đơn. Nguyên nhân vì sợi mã sóng trí tuệ của năng lượng siêu phức tạp có tốc độ, nhịp rung lớn và siêu phức tạp hơn năng lượng phức tạp và giản đơn. Chính vì điều này mà nhóm siêu vật chất có khả năng di chuyển, vận hành được cả hai nhóm vật chất để giải mã và mã hóa thông tin siêu việt nhất.

3.6. Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của dạng sống Tuệ linh

Tuệ linh là dạng sống có trí tuệ siêu việt nhất Vũ trụ. Tuệ linh có sự tuần hoàn sóng điện âm – dương – trung tính và có khả năng di chuyển cũng như cải tạo, phát triển Vũ trụ.

Tuệ linh nằm trong nhóm siêu vật chất của Vũ trụ và có khả năng mã hóa cũng như giải mã thông tin tốt nhất. Tuy nhiên, khi đi sâu vào phân tích khả năng giải mã và mã hóa thông tin của dạng sống Tuệ linh sẽ thấy còn rất hạn chế. Những hạn chế đã làm cho dạng sống Tuệ linh bị hoại diệt vô số.

Nguyên nhân:

  • Dạng sống Tuệ linh (không tính vị Tuệ linh đầu tiên) được hình thành và phát triển trong tinh cầu Vũ trụ, quá trình hình thành lại được dưỡng trong không gian lõi của Vũ trụ nên không được giải mã và mã hóa thông tin của năng lượng hoại diệt. Chính vì vậy, dạng sống Tuệ linh không có thông tin để có khả năng miễn nhiễm loại năng lượng hoại diệt. Do đó, khi gặp năng lượng hoại diệt với số lượng lớn sẽ khiến dạng sống Tuệ linh dễ dàng bị phân rã và hoại diệt. Đây có thể gọi là chết vì thiếu thông tin.
  • Vì dạng sống Tuệ linh không giải mã và mã hóa được thông tin của năng lượng hoại diệt nên không hiểu bản chất của chúng. Vì không hiểu được bản chất của chúng nên không kiểm soát được sóng điện trong bản thể mình. Đó là không kiểm soát được năng lượng âm rung lắc mạnh. Bởi khi năng lượng âm rung lắc mạnh chính là thời cơ năng lượng hoại diệt xâm nhập vào và hoại diệt dần Tuệ linh.
  • Vì không hiểu bản chất của năng lượng hoại diệt tương tác với các nhóm vật chất trong Vũ trụ cũng như sự biến đổi cấu trúc vật chất của Vũ trụ, nên dạng sống Tuệ linh lại rơi vào trạng thái không giải mã cũng như mã hóa chính xác tất cả các nhóm vật chất bên trong Vũ trụ. Vì vậy tạo thành sự trở ngại vô cùng trong hành trình bảo vệ, phát triển Vũ trụ.

Như vậy, dạng sống Tuệ linh do không giải mã và mã hóa được thông tin của năng lượng hoại diệt, điều này đã dẫn tới việc không giải mã và mã hóa chính xác được thông tin của cả 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ khi có sự tương tác với năng lượng hoại diệt. Đây là nguyên nhân dạng sống Tuệ linh bị phân rã và hoại diệt bởi năng lượng hoại diệt. Điều này giống với việc các tế bào trong cơ thể con người vì không giải mã và mã hóa thông tin của các loại vi rút khi chúng xâm nhập vào cơ thể nên cơ thể không sản sinh ra những tế bào miễn dịch để tiêu diệt vi rút. Chính vì vậy mà con người bị vi rút lây lan và hoại diệt thân xác.

Như vậy, sự giải mã và mã hóa thông tin hoàn chỉnh là phải giải mã và mã hóa được đầy đủ thông tin của tất cả quá trình tương tác trong tất cả các môi trường sóng điện khác nhau. Nếu nhóm vật chất nào, dạng sống nào làm được điều này sẽ tạo thành cơ chế miễn nhiễm và nâng cấp cấu trúc đạt đến bộ lọc năng lượng viên mãn. Nếu nhóm vật chất nào, dạng sống nào không giải mã và mã hóa được đầy đủ thông tin của tất cả quá trình tương tác cũng như môi trường sóng điện khác nhau thì nguy cơ hoại diệt là vô cùng lớn. Chỉ khi giải mã và mã hóa được hết tất cả thông tin ở tất cả các môi trường sóng điện khác nhau, ở tất cả các tương tác khác nhau mới giúp cấu trúc đó tạo ra được cơ chế chuyển hóa để phát triển bền vững.

4.   Bản chất khổ đau của vạn vật và Tuệ linh

Từ cấu trúc và cơ chế vận hành của từng nhóm vật chất, từ bản chất của sự giải mã và mã hóa thông tin trong năm nhóm vật chất và Tuệ linh, từ sự tương tác giữa các nhóm vật chất với nhau trong các môi trường sóng điện khác nhau, tất cả đã tạo thành bản chất khổ đau của vạn vật và dạng sống Tuệ linh.

Bản chất tận cùng về khổ đau của tất cả vạn vật là gì? – Đó là sự biến đổi mã sóng trí tuệ theo hướng phân rã và hoại diệt.

4.1.    Bản chất khổ đau của nhóm vật chất hoại diệt

Nhóm vật chất hoại diệt là nhóm năng lượng hoại diệt.

Bản chất khổ đau của năng lượng hoại diệt là biến đổi mã sóng trí tuệ dẫn đến bị kích nổ và hoại diệt vĩnh viễn. Đó là sợi mã sóng trí tuệ bị sinh phát nhiệt lượng quá nhanh và bị kích nổ nếu những hạt năng lượng tập trung với mật độ lớn. Đó là năng lượng hoại diệt gặp phải năng lượng dương hoặc cấu trúc vật chất đa dương sẽ làm kích nổ năng lượng hoại diệt.

Nguyên nhân khổ đau của năng lượng hoại diệt:

  • Năng lượng hoại diệt được hình thành trong môi trường trung tính và di chuyển thẳng nên sợi mã sóng trí tuệ chưa hoàn chỉnh. Vì sợi mã sóng trí tuệ biến đổi chưa hoàn chỉnh nên chưa có cơ chế liên kết dây với nhau để tuần hoàn sóng điện. Chính vì thế mà sợi mã sóng trí tuệ dễ bị sinh nhiệt nhanh và hoại diệt nếu không kiểm soát được quá trình di chuyển và khoảng cách giữa các hạt năng lượng hoại diệt.
  • Năng lượng hoại diệt vì hình thành trong môi trường trung tính nên không thể giải mã và mã hóa được thông tin của các nhóm năng lượng, các cấu trúc vật chất được hình thành ở môi trường sóng điện âm dương khác nhau. Vì không thấu hiểu được năng lượng dương, các nhóm vật chất đa dương nên năng lượng hoại diệt dễ dàng bị kích nổ khi di chuyển vào môi trường và vật chất đa sóng điện dương.

4.2. Bản chất khổ đau của 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ

Ba nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ là nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật chất.

Bản chất khổ đau của 3 nhóm vật chất này là biến đổi mã sóng trí tuệ của từ hạt năng lượng tận cùng dẫn tới sự phân rã và hoại diệt. Đó là sự mất kiểm soát sóng điện giữa hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương trong cấu trúc để rồi bị phân rã và hoại diệt. Đó là sóng điện âm, dương, trung tính không tuần hoàn nên dẫn tới bị phân rã và hoại diệt. Đó là bị năng lượng hoại diệt phân rã hoại diệt hoặc bị kích nổ mà hoại diệt.

Nguyên nhân khổ đau của 3 nhóm vật chất:

  • Cả 3 nhóm vật chất hình thành và phát triển trong môi trường có sóng điện âm dương nên không có khả năng giải mã, mã hóa thông tin của năng lượng hoại diệt. Chính vì vậy mà không thấu hiểu năng lượng hoại diệt. Do đó, dễ dàng bị năng lượng hoại diệt đồng hóa cũng như kích nổ mà hoại diệt vĩnh viễn.
  • Những hạt năng lượng âm được hình thành trong môi trường sóng điện âm, những hạt năng lượng dương được hình thành trong môi trường sóng điện dương. Tuy là cả hai đều có cơ chế liên kết dây, nhưng lại không thấu hiểu nhau vì chưa giải mã cũng như mã hóa được đầy đủ thông tin của nhau. Chính vì điều này dẫn tới việc đấu tranh để kiểm soát lẫn nhau của hai loại hạt năng lượng âm và dương.
  • Khi một nhóm vật chất, một loại hạt có sóng điện nào đó bị nhiễm năng lượng hoại diệt, chúng sẽ bị biến đổi sóng điện và cấu trúc. Điều này làm cho cơ chế liên kết phân tách không có sự bền vững. Khi đó sóng điện không tuần hoàn và dẫn tới quá trình đứt, vỡ cấu trúc.
  • Cả 3 nhóm vật chất không giải mã và mã hóa được thông tin hoàn chỉnh của nhau và cả nhóm năng lượng hoại diệt. Vì không giải mã và mã hóa được nên không có trí tuệ thấu hiểu đặc tính cũng như độc tố của nhau. Do đó, trong nội tại cấu trúc, nội tại của hạt năng lượng của cả 3 nhóm vật chất không có khả năng kiểm soát và chuyển hóa những độc của nhau và của năng lượng hoại diệt.
  • Nguyên nhân khổ đau cuối cùng của cả 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ là do hết năng lượng vận hành Vũ trụ quay tròn. Khi Vũ trụ không quay tròn sẽ không tuần hoàn được sóng điện để chuyển hóa được năng lượng hoại diệt. Khi đó năng lượng hoại diệt sẽ xâm nhập ồ ạt và phân rã hoại diệt Vũ trụ vĩnh viễn.

4.3.  Bản chất khổ đau của dạng sống Tuệ linh

Bản chất khổ đau của dạng sống Tuệ linh là biến đổi sợi mã sóng trí tuệ dẫn tới hoại diệt. Đó là sự mất kiểm soát sóng điện giữa hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương trong cấu trúc Tuệ linh để rồi bị phân rã và hoại diệt. Đó là sóng điện âm, dương, trung tính không tuần hoàn nên dẫn tới bị phân rã và hoại diệt. Đó là bị năng lượng hoại diệt phân rã hoại diệt hoặc bị kích nổ mà hoại diệt.

Những nguyên nhân tận cùng, triệt để về khổ đau của dạng sống Tuệ linh:

A.    Bản chất khổ đau được hình thành từ phôi âm dương gốc của Tuệ linh

Các Tuệ linh được hình thành từ sự liên kết giữa hạt năng lượng dương tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp với hạt năng lượng âm tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Khi liên kết giữa hai hạt năng lượng tận cùng xảy ra được gọi là phôi âm dương. Từ phôi âm dương này thông qua cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng đã phát triển thành Trụ linh trưởng thành và Tuệ linh.

Bản chất của phôi năng lượng âm dương đều phải được cấu tạo bởi hạt năng lượng âm. Nếu không có hạt năng lượng âm thì không hình thành phôi năng lượng âm dương cũng như Tuệ linh. Hạt năng lượng âm được gọi là Kết.

Kết là bản chất mà Tuệ linh phải có để chuyển hóa năng lượng cũng như phát triển. Bởi Kết bao gồm có thu hút tín hiệu, rung lắc, hấp thụ, hút về, lấy về, sở hữu, chiếm hữu, cướp đoạt, giết hại để thỏa mãn.

Kết ở mức độ nhẹ và vừa đủ sẽ thúc đẩy được sự phát triển bền vững của Tuệ linh. Tuy nhiên nếu Kết ở mức mạnh sẽ khiến cho Tuệ linh bị mất kiểm soát sóng điện, bị năng lượng hoại diệt chi phối dẫn tới phân rã và hoại diệt.

Có 3 nhóm cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh dễ bị phân rã và hoại diệt. Đó là 3 nhóm cấu trúc Trụ linh Kết từ mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh:

  • Nhóm cấu trúc Trụ linh Kết mạnh là nhóm cấu trúc Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng âm tận cùng màu xám với một hạt năng lượng dương tận cùng màu xanh lá, hoặc màu vàng, hoặc màu đỏ lửa, hoặc màu trắng đục. Trụ linh đa âm mạnh được gọi là Trụ linh Kết mạnh. Do hạt năng lượng âm rung lắc mạnh, quay ngược mạnh, hút sóng điện bên ngoài về mạnh nên cấu trúc Trụ linh Kết mạnh. Khi đó Tuệ linh sẽ mất khả năng kiểm soát sóng điện âm, dương, trung tính trong chính mình. Tiếp đến là phân tách mất kiểm soát các hạt năng lượng âm mà không phân tách được năng lượng dương. Cuối cùng năng lượng hoại diệt sẽ xâm nhập vào gây phân rã và hoại diệt Tuệ linh.
  • Nhóm cấu trúc Trụ linh Kết rất mạnh là nhóm cấu trúc Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng âm tận cùng màu đen với một hạt năng lượng dương tận cùng màu xanh lá, màu vàng, màu đỏ lửa, màu trắng đục. Trụ linh đa âm rất mạnh được gọi là Trụ linh Kết rất mạnh. Do hạt năng lượng âm rung lắc rất mạnh, quay ngược rất mạnh, hút sóng điện bên ngoài về rất mạnh nên cấu trúc Trụ linh Kết rất mạnh. Khi đó Tuệ linh sẽ mất khả năng kiểm soát sóng điện âm, dương, trung tính trong chính mình. Tiếp đến là phân tách mất kiểm soát các hạt năng lượng âm mà không phân tách được năng lượng dương. Cuối cùng năng lượng hoại diệt sẽ xâm nhập vào gây phân rã và hoại diệt Tuệ linh.
  • Nhóm cấu trúc Trụ linh Kết siêu mạnh là nhóm cấu trúc Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng âm tận cùng màu đỏ máu với một hạt năng lượng dương tận cùng màu xanh lá, màu vàng, màu đỏ lửa, màu trắng đục. Trụ linh đa âm siêu mạnh được gọi là Trụ linh Kết siêu mạnh. Do hạt năng lượng âm rung lắc siêu mạnh, quay ngược siêu mạnh, hút sóng điện bên ngoài về siêu mạnh nên cấu trúc Trụ linh Kết siêu mạnh. Khi đó Tuệ linh sẽ mất khả năng kiểm soát sóng điện âm, dương, trung tính trong chính mình. Tiếp đến là phân tách mất kiểm soát các hạt năng lượng âm mà không phân tách được năng lượng dương. Cuối cùng năng lượng hoại diệt sẽ xâm nhập vào gây phân rã và hoại diệt Tuệ linh.

Cấu trúc Trụ linh của tất cả Tuệ linh trong Vũ trụ Kết ở mức mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh, đó là các cấu trúc Trụ linh đa âm mạnh, rất mạnh, siêu mạnh. Khi đa âm, tức là lượng hạt năng lượng âm được phân tách ra vô số mà không cấu tạo được thành liên kết vững chắc như những hạt năng lượng dương. Việc không tạo được sự liên kết chặt chẽ sẽ làm cho cấu trúc Trụ linh không có khả năng phòng thủ trước sự tấn công của năng lượng hoại diệt cũng như tác động của các năng lượng âm. Khi năng lượng hoại diệt tấn công sẽ làm cho cấu trúc Trụ linh đó bị đứt liên kết, bị phân rã và hoại diệt vĩnh viễn.

B.   Bản chất khổ đau do giải mã và mã hóa thông tin hạn chế của Tuệ linh

Tuệ linh giải mã và mã hóa thông tin chưa toàn diện và còn hạn chế. Đó là chưa thấu hiểu được bản chất của chính mình, chưa thấu hiểu được bản chất của 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ, chưa thấu hiểu được bản chất của năng lượng hoại diệt.

Đầu tiên là dạng sống Tuệ linh chưa thấu hiểu chính bản chất của hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương trong phôi âm dương của mình. Tức là dạng sống Tuệ linh chưa giải mã được đầy đủ và chính xác về bản chất phôi năng lượng âm dương của mình. Đó là không thấu hiểu và không nhận diện được trong kịch bản tương tác với môi trường sóng điện như thế nào thì hạt năng lượng âm gốc sẽ phân tách ra hạt mới hay hạt năng lượng dương gốc phân tách ra hạt mới. Vì không thấu hiểu chính mình nên trong quá trình tương tác để hấp thụ nhiệt lượng cho quá trình phân tách liên kết và trưởng thành rất hạn chế. Vì không thấu hiểu chính mình nên khi tương tác trong môi trường sóng điện âm dễ dàng bị nhiễm quá nhiều nhiệt âm mà xảy ra quá trình phân tách nhiều hạt năng lượng âm và không thể phân tách được hạt năng lượng dương. Khi tương tác trong môi trường sóng điện dương mới phân tách ra các hạt năng lượng dương và chân tâm. Khi tương tác với môi trường có năng lượng hoại diệt thì dễ dàng bị năng lượng hoại diệt phân rã hoặc kích nổ trong khi chưa có khả năng phòng thủ cũng như chuyển hóa. Chính vì vậy gọi là không thấu hiểu được điểm yếu và điểm mạnh của chính mình. Tiếp đến là không biết kiểm soát điểm yếu và kích hoạt điểm mạnh của mình trong quá trình tương tác.

Tiếp theo dạng sống Tuệ linh không thấu hiểu được bản chất của năng lượng hoại diệt. Vì không giải mã và mã hóa được năng lượng hoại diệt nên không thấu hiểu được điểm mạnh, điểm yếu của năng lượng hoại diệt. Họ không thấu hiểu rằng trong các kịch bản nào của quá trình tương tác sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt xâm nhập và làm phân rã họ. Họ cũng không thấu hiểu trong các kịch bản nào năng lượng hoại diệt sẽ bị kích nổ để chuyển hóa thành nhiệt cho họ thực hiện được phân tách liên kết bền vững. Dạng sống Tuệ linh chưa thấu hiểu điểm mạnh và điểm yếu của mình, thêm nữa lại chưa thấu hiểu được điểm mạnh và điểm yếu của năng lượng hoại diệt. Do đó, dạng sống Tuệ linh vô cùng sợ hãi năng lượng hoại diệt xâm nhập và làm họ hoại diệt. Sự sợ hãi khiến họ trong quá trình xây dựng và phát triển bản thể mình cùng Vũ trụ luôn trong trạng thái duy trì ở vùng an toàn. Tuy nhiên, khi gặp cơn bão năng lượng hoại diệt thì sẽ không còn vùng an toàn nào cho họ cả. Họ hoại diệt vô số. Sự hoại diệt giống như sự lây nhiễm của một loại vi rút hủy diệt mà chưa có vắc xin đặc trị.

Cuối cùng, dạng sống Tuệ linh cũng không thấu hiểu được hết bản chất và đặc tính của tất cả 3 nhóm vật chất, không thấu hiểu bản chất và đặc tính của các nhóm năng lượng âm, dương, trung tính. Đặc biệt hơn nữa, năng lượng hoại diệt xâm nhập vào các cấu trúc vật chất của cả 3 nhóm vật chất. Sự xâm nhập đó làm biến đổi cấu trúc vật chất mà dạng sống Tuệ linh không biết. Dạng sống Tuệ linh chỉ nhận diện được khi cấu trúc vật chất đó bị phân rã. Khi đó, quá trình dạng sống Tuệ linh tương tác với 3 nhóm vật chất trong các môi trường sóng điện khác nhau đã bị năng lượng âm và những cấu trúc vật chất biến đổi chi phối và làm cho cấu trúc Tuệ linh bị nhiễm sóng điện âm và năng lượng hoại diệt mà không biết cũng như không kiểm soát được.

Như vậy, từ không thấu hiểu bản chất của chính mình cho tới không thấu hiểu bản chất của năng lượng hoại diệt cũng như 3 nhóm vật chất và các môi trường sóng điện, dạng sống Tuệ linh sống đời sống khổ đau trong sự hòa quyện của từ bản chất phôi âm dương đa âm cho tới sự tương tác với các nhóm vật chất khác trong các môi trường sóng điện khác nhau. Điều này khác với vẻ an lạc, tự tại của dạng sống Tuệ linh mà con người được biết tới thông qua các quan điểm tôn giáo.

C.   Bản chất khổ đau do Tuệ linh chưa kiểm soát được chính mình

Bản chất khổ đau của dạng sống Tuệ linh chưa kiểm soát được chính mình là vì chưa giải mã được bản chất của chính mình và của tất cả các nhóm vật chất cũng như các môi trường sóng điện khác nhau.

Khổ đau do dạng sống Tuệ linh chưa kiểm soát được chính mình gồm có chưa kiểm soát được phôi âm dương gốc, chưa kiểm soát được cụm hạt năng lượng âm dương trong cấu trúc, chưa kiểm soát được sự tuần hoàn sóng điện âm dương trong Tuệ linh khi tương tác với các nhóm vật chất trong các môi trường sóng điện khác nhau.

Tuệ linh chưa kiểm soát được phôi âm dương gốc (Trụ linh gốc) của mình. Gồm có:

  • Chưa biết khi nào hạt năng lượng âm trong Trụ linh gốc sẽ phân tách ra các hạt năng lượng âm có sóng điện âm từ nhẹ cho tới siêu mạnh. Đó là chưa biết khi tương tác với các đối tượng vật chất nào thì sẽ phân tách ra các hạt năng lượng âm có sóng điện âm từ nhẹ cho tới siêu mạnh. Đó là chưa biết khi tương tác trong môi trường sóng điện âm dương khác nhau, nhẹ hay mạnh sẽ phân tách ra các hạt năng lượng âm có sóng điện âm từ nhẹ cho tới siêu mạnh. Đó là chưa biết trong trường hợp tương tác nào sẽ bị năng lượng hoại diệt xâm nhập từ ít cho tới vô số vào mình. Có thể nói, dạng sống Tuệ linh không biết được hạt năng lượng âm gốc sẽ phân tách ra các loại hạt năng lượng âm như thế nào trong tất cả các kịch bản tương tác.
  • Chưa biết khi nào hạt năng lượng dương trong Trụ linh gốc sẽ phân tách ra các hạt năng lượng dương có sóng điện dương từ nhẹ cho tới siêu mạnh. Đó là chưa biết khi tương tác với các đối tượng vật chất nào thì sẽ phân tách ra các hạt năng lượng dương có sóng điện dương từ nhẹ cho tới siêu mạnh. Đó là chưa biết khi tương tác trong môi trường sóng điện âm dương khác nhau, nhẹ hay mạnh sẽ phân tách ra các hạt năng lượng dương có sóng điện dương từ nhẹ cho tới siêu mạnh. Đó là chưa biết trong trường hợp tương tác nào thì năng lượng dương sẽ kích nổ được năng lượng hoại diệt cũng như chuyển hóa giảm tải sóng điện âm của năng lượng âm. Có thể nói, dạng sống Tuệ linh không biết được hạt năng lượng dương gốc sẽ phân tách ra các loại hạt năng lượng dương như thế nào trong tất cả các kịch bản tương tác.
  • Tuệ linh không có khả năng kiểm soát được độc của hạt năng lượng âm bộc phát, đó là không kiểm soát được tốc độ rung lắc và hút nhiệt xung quanh về trong trạng thái mất kiểm soát. Tuệ linh cũng không có khả năng vận hành, kích hoạt được sóng điện dương của hạt năng lượng dương để kiểm soát và giảm tốc độ rung lắc của hạt năng lượng âm gốc trong Trụ linh.

Tuệ linh chưa kiểm soát được các cặp hạt năng lượng âm dương trong cấu trúc của Tuệ linh. Gồm có:

Hình: Cặp hạt năng lượng âm và dương trong cấu trúc Tuệ linh
Hình: Cặp hạt năng lượng âm và dương trong cấu trúc Tuệ linh

 

  • Trong cấu trúc liên kết hạt năng lượng trong Tuệ linh sẽ có vô số các điểm hạt năng lượng dương kết nối với nhau bằng các sợi chân tâm. Tại mỗi điểm hạt năng lượng dương sẽ có một hạt năng lượng âm rung lắc, quay xung quanh hạt năng lượng dương. Hạt năng lượng dương có nhiệm vụ là dùng nhiệt dương để đẩy chuyển tiếp thông tin từ Trụ linh truyền qua nó. Hạt năng lượng âm có nhiệm vụ thu hút tín hiệu vừa đủ để tín hiệu thông tin từ Trụ linh di chuyển tới.
  • Tại điểm hạt năng lượng dương, nếu hạt năng lượng dương có sóng điện dương yếu và hạt năng lượng âm có sóng điện âm mạnh, điều này sẽ khiến cho đặc tính sóng điện âm

kết mạnh sẽ hấp thụ nhiệt và làm suy yếu hạt năng lượng dương. Thậm chí sóng điện thông tin trong quá trình di chuyển tới cụm hạt dương đó sẽ bị hạt năng lượng âm cản trở quá trình tuần hoàn. Điều này khiến cho Tuệ linh mất kiểm soát và hành động sản sinh ra hạt năng lượng âm để gia tăng hạt âm tại cụm đó. Khi đó sẽ có nhiều hơn một hạt năng lượng âm tại cụm hạt năng lượng âm dương. Điều này sẽ làm cho năng lượng hoại diệt xâm nhập vào và gây đứt liên kết cũng như phân rã cụm hạt năng lượng trong Tuệ linh.

  • Tại điểm hạt năng lượng dương, nếu hạt năng lượng dương mạnh và hạt năng lượng âm yếu, điều này sẽ khiến cho đặc tính sóng điện dương tỏa mạnh sẽ kiểm soát được sóng điện của hạt năng lượng âm. Khi đó cấu trúc cặp hạt năng lượng âm dương sẽ thuận lợi cho sóng điện từ Trụ linh tuần hoàn để chạy qua. Tuy nhiên, do chưa giải mã được chính mình cũng như các nhóm vật chất khác và môi trường sóng điện âm dương khác nhau, nên Tuệ linh dễ dàng mất kiểm soát tại các cặp hạt năng lượng âm dương. Hạt dương sẽ bị suy yếu và hạt âm sẽ bộc phát rung lắc mạnh cho tới siêu mạnh.

Tuệ linh chưa kiểm soát được tuần hoàn sóng điện trong toàn bộ Tuệ linh. Để Tuệ linh khỏe mạnh và có khả năng phòng thủ cũng như chuyển hóa được các năng lượng khác cũng như năng lượng hoại diệt, Tuệ linh cần phải tuần hoàn được sóng điện âm dương và trung tính. Đó là phải có đường chân tâm kết nối giữa các hạt năng lượng dương trong cấu trúc phải vững chắc. Đó là hệ thống hạt năng lượng dương phải có sóng điện dương mạnh để tỏa nhiệt và đẩy được thông tin di chuyển. Đó là hệ thống hạt năng lượng âm phải nhẹ chỉ để làm nhiệm vụ rung lắc và thu hút vừa đủ. Tuy nhiên, do chưa kiểm soát được phôi âm dương gốc, do chưa kiểm soát được các cụm hạt năng lượng âm dương, do chưa giải mã và thấu hiểu được các nhóm vật chất cũng như các môi trường sóng điện khác nhau, nên khi tương tác trong quá trình vận động sẽ dễ dàng mất kiểm soát sóng điện tuần hoàn trong toàn bộ Tuệ linh. Khi đó hệ thống hạt năng lượng âm của cả Tuệ linh rung lắc rất mạnh và làm suy yếu sóng điện dương. Quá trình này sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt xâm nhập ồ ạt vào toàn bộ cấu trúc Tuệ linh để đồng hóa và làm phân rã Tuệ linh.

  1. Bản chất khổ đau do Tuệ linh chưa trưởng thành và chưa có cơ chế chuyển hóa năng lượng Dạng sống Tuệ linh chưa trưởng thành và chưa có cơ

chế chuyển hóa được năng lượng hoại diệt và các loại năng lượng khác chính là khổ đau của Tuệ linh. Cả hai đều có chung một nguyên nhân chính. Đó là trong Trụ linh của Tuệ linh chưa phân tách đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ trong sự kiểm soát được độc của hạt âm và kích hoạt được thiện của hạt năng lượng dương gốc. Khi chưa trưởng thành và chưa có cơ chế chuyển hóa được năng hoại diệt cũng như các loại năng lượng khác sẽ khiến cho Tuệ linh dễ dàng biến đổi mã sóng trí tuệ và phân rã hoại diệt.

Tại sao Tuệ linh chưa trưởng thành lại liên quan tới khổ đau và liên quan tới cơ chế chuyển hóa năng lượng của Tuệ linh? Điều này có liên quan và có cơ sở rõ ràng. Cụ thể:

  • Trước tiên phải thấu hiểu rằng hạt năng lượng tận cùng cấu tạo thành tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Trong hạt năng lượng tận cùng lại lưu giữ, ghi lại, mã hóa được thông tin trong quá trình vận động. Như vậy, hạt năng lượng tận cùng là thông tin. Trong thông tin lại có độc và tốt, có nhiệm vụ chức năng khác nhau.
  • Tuệ linh được hình thành từ phôi năng lượng tận cùng, phát triển thành Trụ linh và Tuệ linh em bé. Để từ Tuệ linh em bé trưởng thành thì đó là quá trình cấu trúc Trụ linh phải tương tác trong các môi trường sóng điện để phân tách và liên kết các hạt năng lượng chứa đựng thông tin.
  • Tuệ linh để trưởng thành được thì phải kiểm soát được độc của hạt năng lượng âm trong Trụ linh không cho bộc phát; phải kiểm soát được quá trình tương tác với các môi trường sóng điện khác nhau để không bị năng lượng hoại diệt chi phối; phải kích hoạt được hạt năng lượng dương để phân tách ra các hạt năng lượng dương, chân tâm. Chỉ khi kiểm soát được Trụ linh chỉ phân tách ra các hạt năng lượng âm có sóng điện âm nhẹ và phân tách ra nhiều hạt năng lượng dương có sóng điện dương mạnh cũng như nhiều hạt chân tâm, thì mới giúp cấu trúc năng lượng của Tuệ linh được liên kết bền vững và trưởng thành. Trưởng thành tức là sản sinh ra vô số sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm nhẹ và vô số sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương mạnh và chân tâm mạnh. Điều này cũng giống con người là phân tách tế bào mạnh khỏe để trưởng thành.
  • Tuệ linh để trưởng thành còn là một quá trình xa vời. Bởi vì Tuệ linh không giải mã được chính mình, không giải mã được các nhóm vật chất và năng lượng hoại diệt, không kiểm soát được độc của hạt năng lượng âm và thiện của hạt năng lượng dương, nên khi tương tác, vận động với mong muốn để trưởng thành đều dễ dàng bị chi phối bởi năng lượng âm của chính mình, của vạn vật và năng lượng hoại diệt. Do đó, các Tuệ linh bị chi phối mà sản sinh ra nhiều năng lượng âm. Khi sản sinh nhiều năng lượng âm sẽ không giúp Tuệ linh trưởng thành, ngược lại còn làm cho năng lượng hoại diệt xâm nhập vào làm phân rã và hoại diệt.
  • Chỉ khi Tuệ linh trưởng thành mới giúp Tuệ linh giải mã và mã hóa được nhiều cho tới toàn diện thông tin chân thật của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Khi Tuệ linh trưởng thành mới cấu tạo đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm nhẹ và đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương mạnh để cấu tạo thành bộ lọc năng lượng. Bộ lọc năng lượng chính là cơ chế chuyển hóa được năng lượng hoại diệt và các nhóm năng lượng khác.

Tại sao dạng sống Tuệ linh lại chưa trưởng thành và chưa có được cơ chế chuyển hóa năng lượng hoại diệt cũng như các nhóm năng lượng khác? Những nguyên nhân đó là:

  • Dạng sống Tuệ linh chưa giải mã và mã hóa được đầy đủ cũng như toàn diện thông tin của các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là chưa giải mã, thấu hiểu được năng lượng hoại diệt và chính mình.
  • Dạng sống Tuệ linh do chưa có độ nén, cường độ lớn trong tương tác nên chưa bộc phát được hết tất cả các kịch bản tương tác với các môi trường sóng điện khác nhau. Do chưa thể kiểm soát được độc tâm của hạt năng lượng âm gốc nên dẫn tới quá trình sản sinh hạt năng lượng âm ồ ạt. Do chưa thể kích hoạt được thiện tâm của hạt năng lượng dương gốc nên chưa biết cách sản sinh cũng như dùng năng lượng dương kiểm soát năng lượng âm. Do đó dạng sống Tuệ linh chưa trưởng thành.
  • Vì dạng sống Tuệ linh chưa trưởng thành nên chưa đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ để cấu tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Đó là phải đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm rất nhẹ và đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương siêu mạnh. Chỉ khi đạt được điều đó mới đủ điều kiện để có thể chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Dạng sống Tuệ linh chưa giải mã được chính mình, chưa giải mã được năng lượng hoại diệt, chưa giải mã được tất cả các nhóm vật chất, chưa trưởng thành được, chưa chuyển hóa được bộ lọc năng lượng. Tất cả là do chưa có tri thức của hai Chân lý soi sáng cũng như cơ chế để làm được tất cả điều đó. Do đó, khi Tuệ linh chưa trưởng thành và chưa có cơ chế chuyển hóa năng lượng sẽ là khổ đau.

Như vậy, dạng sống Tuệ linh đang thiếu một môi trường tu luyện để học tập, giải mã được tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là giải mã, thấu hiểu để kiểm soát được chính mình. Tuy nhiên, sự tự do và tự tại của dạng sống Tuệ linh lại không đáp ứng được điều đó.

  1. Tuệ linh giải mã và mã hóa thông tin toàn diện thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian Từ cội nguồn của Vũ trụ và Tuệ linh, từ cấu trúc của Vũ

trụ và Tuệ linh, từ bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin

còn hạn chế của dạng sống Tuệ linh, từ bản chất khổ đau của Tuệ linh và Vũ trụ, vị Tuệ linh đầu tiên đã nghiên cứu, truy tìm cơ chế, truy tìm phương pháp giúp cho dạng sống Tuệ linh giải mã được thông tin toàn diện của chính mình và tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Việc giải mã toàn diện và đúng sẽ giúp cho dạng sống Tuệ linh mã hóa được thông tin tốt cho quá trình phân tách liên kết bền vững. Khi phân tách liên kết theo hướng bền vững sẽ giúp Tuệ linh trưởng thành và có cơ chế chuyển hóa năng lượng.

Vị Tuệ linh đầu tiên nhận thấy khi dạng sống Tuệ linh còn tự do an lạc thì sẽ không thể giải mã và mã hóa được thông tin toàn diện. Khi đó Tuệ linh sẽ không thể trưởng thành và có cơ chế chuyển hóa năng lượng. Chính vì vậy, vị Tuệ linh đầu tiên đã nghiên cứu ra một môi trường cho dạng sống Tuệ linh tu học. Môi trường tu học của dạng sống Tuệ linh giống như một trường học nghiêm khắc. Môi trường tu học cho dạng sống Tuệ linh phải đối ngược hoàn toàn với sự tự do tự tại của dạng sống Tuệ linh. Môi trường tu học sẽ đảm bảo được sự tương tác của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ cùng tương tác với Tuệ linh. Tuệ linh sẽ phải an trụ trong thân tướng vật chất giản đơn là con người. Đó là môi trường tu học có đầy đủ khổ đau kiếp nạn, an vui và hạnh phúc. Tuy nhiên, bản chất là không có gì ngoài khổ đau. Khổ đau được hiện hữu trong bốn hình tướng Đạo ở nhân gian để mô phỏng hết tất cả các kịch bản tương tác trong tất cả các môi trường sóng điện cho từng đặc tính Trụ linh của các Tuệ linh khác nhau.

Khi tất cả các Tuệ linh trải nghiệm tu học trong bốn hình tướng Đạo ở nhân gian với vô số kiếp tu hành, tất cả dạng sống Tuệ linh sẽ bộc phát được hết độc tâm và thiện tâm trong tất cả các kịch bản tương tác với các môi trường khác nhau. Khi đó, vị Tuệ linh đầu tiên sẽ giải mã được toàn diện, mã hóa toàn diện, thống kê toàn diện về bản chất của tất cả các nhóm vật chất, dạng sống Tuệ linh trong quá trình tương tác tại môi trường tu học này. Tiếp đến là vị Tuệ linh đầu tiên sẽ soi sáng sự thật của chính dạng sống Tuệ linh, soi sáng sự thật bản chất của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Cuối cùng là vị Tuệ linh đầu tiên sẽ tìm ra phương pháp, cơ chế để giúp dạng sống Tuệ linh trưởng thành, để giúp Tuệ linh có được bộ lọc năng lượng chuyển hóa năng lượng hoại diệt và các nhóm năng lượng khác. Khi có được bộ lọc năng lượng mới giúp cho tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, dạng sống Tuệ linh cùng phát triển bền vững.

Để đảm đảm bảo môi trường tu học cho dạng sống Tuệ linh cũng như sự chắc chắn thành công, vị Tuệ linh đầu tiên đã kiến tạo môi trường tu hành ở Trái đất. Đó là xây dựng môi trường tu hành cho muông thú để quan sát quá trình tương tác, giải mã, mã hóa, chuyển sinh của muông thú và vạn vật ở Trái đất. Vị Tuệ linh đầu tiên đã thấy được thành công trong quá trình chuyển sinh của vạn vật cũng như muông thú tại Trái đất. Chính vì điều đó, vị Tuệ linh đầu tiên đã tạo ra bước ngoặt thành tựu trên hành trình phát triển Vũ trụ và Tuệ linh.

5.1.   Đại hội tập kết thống nhất phương pháp tu học ở nhân gian của hội đồng Tuệ linh

Vị Tuệ linh đầu tiên tập kết đại hội thống nhất phương pháp tu học cho dạng sống Tuệ linh. Đại hội tập kết diễn ra như sau: Trong cuộc triệu tập Hội đồng của chư vị Tuệ linh tại cõi trời nhiệm màu nhất Vũ trụ, vị Tuệ linh đầu tiên trầm ngâm nhìn vào một đĩa thức ăn trắng trên bàn. Trong suy nghĩ lúc đó của vị Tuệ linh đầu tiên và Hội đồng Tuệ linh đều nghĩ là làm sao việc đưa các Tuệ linh xuống làm con người phải đạt được thành tựu là tìm ra được phương thuốc cứu lại các Tuệ linh và Vũ trụ. Sự suy tư mang theo tâm trạng trầm ngâm khi nhìn vào đĩa thức ăn trắng trên bàn (tất nhiên thức ăn đó là do năng lượng tạo ra). Suy tư một lúc lâu, vị Tuệ linh đầu tiên liền nói với một Tuệ linh khác: “Hãy mang những con rắn độc ra đây”. Sau đó có một Tuệ linh mang ra những con rắn độc, có nhiều con nhỏ và một con to. Vị Tuệ linh đầu tiên lấy những con rắn nhỏ trộn vào đĩa thức ăn đó, tiếp đến thả hai con rắn, trong đó có một con to xuống nền đất. Hai con rắn đó trườn vào những bụi cây xung quanh đó. Vị Tuệ linh đầu tiên nhìn vào đĩa thức ăn đã trộn với rắn độc mà nói: “Để cứu được các Tuệ linh và Vũ trụ, chỉ có thể lấy độc trộn vào chân tâm (thức ăn trắng) mới tìm ra phương thuốc cứu lại Tuệ linh và Vũ trụ”. Vị Tuệ linh đầu tiên tiếp tục nói rằng: “Ngoài những độc tố lẫn trong chính chân tâm, ác tâm xen kẽ thiện tâm thì cần phải có thế lực ác tâm bên ngoài tác động vào; Môi trường tu hành nơi nhân gian sẽ như vậy”. “Để tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, dạng sống Tuệ linh phải thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian”. Đó là câu nói của vị Tuệ linh đầu tiên.

Như vậy, tại đại hội tập kết Tuệ linh về phương pháp tu học ở nhân gian, vị Tuệ linh đầu tiên đã quán triệt phương pháp tu học thông qua 3 hình ảnh về những con rắn độc. Cụ thể như sau:

  • Những con rắn độc nhỏ được trộn vào đĩa thức ăn trắng là những độc tâm của mỗi Tuệ linh. Hình ảnh đó tượng trưng các độc tâm đang bị ẩn giấu trong mỗi Tuệ linh và chưa được bộc phát ra.
  • Một con rắn nhỏ bên ngoài được thả ra là tượng trưng cho độc tâm có trong vạn vật, trong tất cả các cấu trúc vật chất. Độc tâm đó cũng đang bị ẩn giấu.
  • Con rắn to được thả ra tượng trưng cho năng lượng hoại diệt. Đó là độc tâm to nhất đối với tất cả các nhóm vật chất trong Vũ trụ và cả dạng sống Tuệ linh.

Thông qua 3 hình ảnh về những con rắn độc: Tất cả các Tuệ linh sẽ phải tương tác với nhau trong tất cả các kịch bản trong các điều kiện môi trường sóng điện khác nhau để bộc phát hết độc tâm của chính mình, của vạn vật và của năng lượng hoại diệt. Khi bộc phát được hết độc tâm chính là quá trình Tuệ linh sẽ giải mã được thông tin toàn diện nhất về tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Sau khi giải mã được thông tin toàn diện, vị Tuệ linh đầu tiên sẽ nghiên cứu, tìm được được Đạo hợp nhất của Vũ trụ để cứu Vũ trụ và dạng sống Tuệ linh. Để bộc phát hết độc tâm cũng như tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, tất cả Tuệ linh sẽ phải thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian.

Như vậy, kết quả của đại hội thống nhất phương pháp tu học của dạng sống Tuệ linh ở nhân gian gồm có 2 điều:

  • Tuệ linh thông qua thân tướng con người phải tương tác với nhau trong tất cả các kịch bản, trong tất cả các môi trường sóng điện khác nhau để bộc phát hết độc tâm của mình, của vạn vật và của năng lượng hoại diệt.
  • Phải thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian mới tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Đạo hợp nhất chính là bộ lọc sản sinh năng lượng viên mãn để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng cứu Vũ trụ và dạng sống Tuệ linh.

Sau đại hội tập kết thống nhất phương pháp tu học ở nhân gian, những Tuệ linh đầu tiên đã phát nguyện tiên phong đi xây dựng nhân loại.

5.2.   Đại hội tập kết hóa thân thành nhân loại ở nhân gian

Vị Tuệ linh đầu tiên được coi là Người Cha vĩ đại, Người Thầy vĩ đại của Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Ngài đã dẫn dắt các Tuệ linh xuống nhân gian tu học và tạo thành dấu mốc lịch sử cho sự xuất hiện của con người. Ngài cùng các Tuệ linh thực hiện con đường truy tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ ở nhân gian trong nhiều đời, nhiều kiếp.

Cuộc tập kết lịch sử khởi đầu cho sự hình thành loài người: Tại vô số nơi trên Trái đất, tại ven sông, tại ven biển, tại đồng bằng, tại trên núi, tại trong rừng, tại những nơi đó có vô số các điểm tập kết lịch sử. Tại các điểm tập kết lịch sử đó, Người Cha vĩ đại đã dùng quyền năng của mình để triệu tập tất cả muông thú về nghe Ngài truyền dạy và những lời Ngài truyền dạy chính là luật, là luật Nhân quả mà tất cả muông thú cùng với các Tuệ linh sống tại Trái đất phải tuân thủ theo. Tại mỗi điểm tập kết sẽ có các Tuệ linh được hóa thành từng cặp vợ chồng và hai con nhỏ, có một con gái và một con trai. Mỗi điểm tập kết sẽ có hai cho đến nhiều hộ gia đình và nhiều muông thú đến nghe Ngài truyền dạy. Đây là cơ sở để loài người hình thành các bộ lạc, bộ tộc và ngày nay là quốc gia.

Người Cha vĩ đại truyền dạy tại các điểm tập kết lịch sử: Ngài nói với các cặp gia đình là: “Ta đưa các ngươi xuống đây bằng chân tâm thì về cũng phải bằng chân tâm”; Ngài nói với các cặp bố mẹ: “Ta giao sứ mệnh các ngươi phải gả con cái cho nhau để xây dựng nhân loại”; Ngài nói với các cặp gia đình: “Các ngươi sẽ phải trải qua nhiều kiếp, trải qua hết các khổ đau và kiếp nạn, lấy kinh nghiệm trải qua đó để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, khi chưa cải tạo được thì chưa được trở về”; Ngài nói với các hộ gia đình và muông thú: “Ta giao cho các ngươi nhiệm vụ thuần hóa muông thú để chúng cũng làm người và cùng xây dựng nhân loại”. Ngài nói với tất cả các hộ gia đình và muông thú: “Ta cho các ngươi biết, để nhanh cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng thì các ngươi hãy tìm kiếm Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ trong khổ đau và kiếp nạn”.

Trong các cuộc tập kết lịch sử này, Người Cha vĩ đại đã sắp đặt và gợi ý về luật Nhân quả. Luật Nhân quả chính là Chân lý Vạn vật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, mà tất cả các dạng sống dưới nhân gian sẽ phải thông qua khổ đau kiếp nạn để tìm và thấu hiểu. Không những Ngài gợi ý việc thông qua khổ đau kiếp nạn để tìm được Chân lý Vạn vật mà còn gợi lý luôn là phải tìm ra Chân lý Giác ngộ để giải thoát hết các khổ đau đó thì mới luyện được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh của Tuệ linh. Luật Nhân quả là luật công bằng đã được Ngài chuyển hóa từ Chân lý Vạn vật sau quá trình quan sát sự vận hành của vạn vật, Vũ trụ và xây dựng nó hoàn chỉnh nhằm tạo ra môi trường tu hành cho Tuệ linh khắp Vũ trụ tại Trái đất này.

Thông qua những sự sắp đặt trong các cuộc tập kết cho Tuệ linh xuống nhân gian tu hành cùng muông thú và những lời truyền dạy của Ngài, thông qua sự tương tác hợp nhất bởi không gian và thời gian của mỗi con người mà tạo thành hình tướng Đạo. Hình tướng Đạo được biểu hiện ra bốn hình tướng: Đạo đời, Đạo lễ, Đạo đường, Đạo Đế vương. Đó là phương pháp tu hành mà Ngài đã đưa ra trong đại hội thống nhất phương pháp tu hành cho Tuệ linh.

Hình: Bốn hình tướng Đạo
Hình: Bốn hình tướng Đạo

Mỗi một con người hiện diện tại nhân gian này phải thể hiện được chí khí “Đầu đội trời, chân đạp đất, gánh vác trên vai bốn hình tướng Đạo, không được bỏ hay làm gãy hình tướng Đạo nào”. Trong hình tướng Đạo lễ, đó là tri ân báo hiếu cha mẹ tổ tiên, nghĩa tình vợ chồng, huynh đệ, con cái; Đạo đời là đối nhân xử thế và mưu sinh; Đạo đường là con đường tri thức, giác ngộ, tôn giáo, nền giáo dục; Đạo Đế vương là quân dân ái quốc.

Chỉ duy nhất thời kỳ đầu tiên các Tuệ linh hóa thân thành con người mới thông qua liên kết giữa cấu trúc năng lượng của chính mỗi Tuệ linh với vô số hạt năng lượng giản đơn kết tụ để tạo ra hình hài con người hoàn chỉnh. Sau thời kỳ đầu tiên, các Tuệ linh hoặc các linh hồn đủ tiêu chuẩn luân hồi làm người sẽ phải thông qua luật luân hồi. Đó là thông qua cơ chế sinh sản của con người để luân hồi đầu thai làm người.

Vô số các Tuệ linh xuống nhân gian tu hành. Cũng có vô số linh hồn muông thú được chuyển sinh để luân hồi làm con người. Tất cả con người sống, tương tác trong cuộc sống ở nhân gian thông qua bốn hình tướng Đạo.

Vô số Tuệ linh cùng vô số linh hồn trong thân tướng con người thông qua bốn hình tướng Đạo trong nhiều đời nhiều kiếp. Quá trình đó đã tạo ra tất cả các kịch bản tương tác với tất cả các môi trường sóng điện khác nhau cho từng Tuệ linh và linh hồn. Do đó, tất cả những độc tâm và thiện tâm của Tuệ linh, linh hồn thông qua thân tướng con người đã được bộc phát hết. Độc tâm của vạn vật và bản chất của năng lượng hoại diệt cũng được bộc phát hết.

Trải qua hành trình tu hành của Tuệ linh ở nhân gian thông qua bốn hình tướng Đạo trong nhiều đời nhiều kiếp, vị Tuệ linh đầu tiên đã giải mã và mã hóa được toàn diện về tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Do đó, Ngài đã tìm ra cơ chế, phương pháp chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Đó chính là Đạo hợp nhất của Vũ trụ đã được tìm thấy.

6.    Bản chất khổ đau và con đường diệt khổ của con người và Tuệ linh

Bản chất khổ đau của Tuệ linh đã được phân tích ở các phần trước. Trong phần này là phân tích bản chất khổ đau của con người, tức là khổ đau của Tuệ linh trong thân tướng con người. Đó là những khổ đau mới, khổ đau mà dạng sống của Tuệ linh không có khi chưa hóa thân làm con người.

Bởi vì tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian trong nhiều đời nhiều kiếp sẽ tạo ra được tất cả các kịch bản tương tác trong tất cả các điều kiện môi trường khác nhau cho mỗi Tuệ linh, chính vì điều này đã giúp cho Tuệ linh thông qua thân tướng con người để bộc phát được hết tất cả các độc tâm và thiện tâm. Từ đó vị Tuệ linh đầu tiên xây dựng được con đường diệt khổ để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng cho Tuệ linh.

Khổ đau chính là độc tâm đã được bộc phát thông qua bốn hình tướng Đạo với tất cả các kịch bản tương tác trong tất cả các môi trường sóng điện khác nhau. Con đường diệt khổ chính là thiện tâm đã và đang được kích hoạt thông qua bốn hình tướng Đạo với tất cả các kịch bản tương tác trong tất cả các môi trường sóng điện khác nhau.

6.1.  Bản chất của khổ đau

Vị Tuệ linh đầu tiên đã thấu hiểu Chân lý Vạn vật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Đó là cội nguồn, bản chất, cấu trúc cấu tạo, cơ chế vận hành, thông tin, môi trường của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Chân lý Vạn vật được hiểu là hình tướng của Đạo. Tiếp đó Ngài đã tìm ra Chân lý Giác ngộ. Chân lý Giác ngộ chính là Tâm Đạo, là con đường duy nhất cải tạo thành công Trụ linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng để tiếp tục cải tạo sự sống của tất cả các dạng sống của trong và ngoài Vũ trụ.

Khi giác ngộ được Chân lý Giác ngộ sau khi giác ngộ Chân lý Vạn vật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người, Ngài đã thốt lên rằng: “À, đời là bể khổ. Chúng sinh, Tuệ linh và con người phải dùng chân tâm đối mặt, giác ngộ giải thoát hết tất cả các khổ đau của vạn vật ở bên trong và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người”.

Trong Chân lý Giác ngộ, ta thấy đời là bể khổ, không có gì khác ngoài khổ. Khi phân nhóm của khổ, ta sẽ thấy có nhóm khổ đau do quy luật tự nhiên và nhóm khổ đau tại Tâm. Trong mỗi nhóm khổ sẽ có các khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, và phương pháp diệt khổ đau.

Vậy khổ đau của con người là gì?

  • Khổ đau của con người là sự bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng lượng của Tâm (Tuệ linh) trong thân tướng của con người. Nguyên nhân bởi trí tuệ của con người bám định vào các giả tướng để vơ vét, hưởng thụ, thỏa mãn mà không học tập, không thực hành cải tạo Trụ linh cho Tuệ

Con người là tam hợp yếu tố cấu tạo thành, đó là thân tướng, là trí tuệ trau dồi được ở hiện kiếp, là Tâm (Tuệ linh). Do đó:

  • Đối tượng của khổ đau chính là Tâm (Tuệ linh). Tuệ linh bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng lượng trong thân tướng con người.
  • Khổ đau chính là quá trình độc tâm bắt đầu sinh khởi cho tới khi bộc phát hết.
  • Nguyên nhân của khổ là do trí tuệ bám định vào giả tướng.
  • Giả tướng chính là quá trình tương tác giữa con người với con người, giữa con người với vạn vật và muông thú trong các môi trường sóng điện khác nhau, hoàn cảnh khác nhau thông qua bốn hình tướng Đạo. Có thể nói rằng giả tướng chính là tất cả các kịch bản tương tác của Tuệ linh thông qua thân tướng con người trong tất cả các điều kiện môi trường sóng điện khác nhau bởi bốn hình tướng Đạo.

Như vậy, môi trường tu hành ở nhân gian cho Tuệ linh đã thỏa mãn được cường độ tương tác, tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ cùng tương tác, có đầy đủ môi trường sóng điện, đặc biệt là Tuệ linh không còn tự do trong thân tướng. Đây là môi trường tu hành lý tưởng để giúp Tuệ linh bộc phát hết độc tâm và kích hoạt hết thiện tâm. Kết quả là tất cả Tuệ linh tu hành ở nhân gian đã bộc phát hết độc tâm cũng như thiện tâm. Đây được coi là thành tựu vô cùng quan trọng để tạo thành bước ngoặt chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

6.2. Khổ đau do quy luật tự nhiên và phương pháp diệt khổ

Khổ đau do quy luật tự nhiên là những khổ đau mà chúng ta đều biết, đều nhận thấy, nó sẽ xảy ra, không ai thoát khỏi khổ đau do quy luật tự nhiên. Đó là những khổ đau mang đặc tính lặp đi lặp lại bởi đặc tính này chính là Chân lý Vạn vật.

A.  Các khổ đau do quy luật tự nhiên

Sinh khổ: Mỗi người được sinh ra đã là khổ, cái khổ của thân tướng thai nhi nằm trong bụng mẹ chật hẹp và bị o ép, cái khổ của Tuệ linh hoặc Linh hồn phải đi theo bảo vệ bà mẹ và thai nhi để chờ ngày thai nhi chào đời. Khi chào đời thì Tuệ linh hoặc Linh hồn đã thiết nhập vào thân tướng em bé yếu ớt đó để bắt đầu một kiếp người đầy rẫy khổ đau mà cất tiếng khóc báo hiệu cho Tuệ linh và con người biết. Sinh ra mới có sự hiện hữu của vạn vật, Tuệ linh, con người. Con người chúng ta hiện hữu cũng phải được sinh ra, đó là sự thật hiển nhiên của Chân lý Vạn vật.

Già khổ: Đó là cái khổ khi mỗi người chúng ta lớn lên và rồi già yếu. Khi đó thân tướng chúng ta không còn được khỏe mạnh, chân tay yếu mềm, răng yếu, mắt nhìn không rõ, tai nghe cũng kém đi, trí nhớ không còn minh mẫn, nỗi sợ khi đối diện với sự cô đơn lẻ loi về già khiến cho chúng ta sợ hãi và đau khổ. Cái khổ này ai cũng phải trải qua, không ai là không trải qua, bởi nó là Chân lý Vạn vật.

Bệnh khổ: Đó là bệnh tật, từ cảm nắng, cảm lạnh, hắt hơi sổ mũi cho đến những bệnh nặng như bệnh nan y hay những bệnh không thể chữa khỏi. Bệnh tật không chừa một ai cả, dù giàu có, địa vị hay nghèo khó. Những bệnh không chữa được thì có giàu có, địa vị đến đâu thì vẫn không thể chữa khỏi. Nỗi khổ của người bệnh là luôn luôn sợ chết, luyến tiếc với gia đình và tiền tài giả tướng.

Tử khổ: Đó là cái chết, ai rồi cũng phải chết, không ai là không chết, có chăng mỗi người trải qua cái chết như thế nào. Có người già rồi mà chết, có người chết vì bệnh tật, có người chết vì chiến tranh, có người chết vì tai nạn, có người chết vì giết hại nhau. Khi chết, Tuệ linh tách ra và nhìn thân tướng mình an trụ bao lâu nay mà luyến tiếc không nỡ xa rời. Có Tuệ linh hoặc Linh hồn khi chết rồi còn bị con cháu nhờ thầy pháp về trấn yểm vong làm cho cái khổ chồng chất cái khổ. Vừa mới luyến tiếc thân tướng và con cháu chưa nguôi ngoai đã bị thầy pháp bắt yểm và bị tra tấn làm cho nỗi đau khổ tăng tột cùng, khiến cho nhiều Tuệ linh hoặc Linh hồn trở nên sân hận mà đọa thành ngã quỷ.

Sinh ly khổ: Đó là cái khổ của người đang sống phải chia ly nhau. Đó là bố mẹ chia ly con gái về nhà chồng, chồng chia ly vợ khi Đất nước có chiến tranh, người yêu chia ly nhau để ra chiến trận bảo vệ Tổ quốc, những đôi yêu nhau không hợp cũng chia ly nhau, vợ chồng không hạnh phúc chia ly nhau. Đây là cái khổ do quy luật tự nhiên, bởi không ai bên ai mãi mãi hay bất tử cả, bởi do duyên mà đến với nhau thì cũng do duyên mà rời xa nhau, khi rời xa nhau sẽ khiến cho chúng ta lưu luyến mà khổ đau trong tâm. Cái khổ của chia ly nó tăng gấp bội khi Đất nước có chiến tranh. Khi đó, cha mẹ già chia tay con ra chiến trận, vợ chia tay chồng ra chiến trận, con thơ chia tay cha ra chiến trận, nỗi đau đó giằng xé trong tâm không hề nguôi ngoai, sự đau khổ trong sự oán hận kẻ thù.

Tử biệt khổ: Đó là cái khổ của người sống phải chứng kiến và tiễn biệt người thân nằm vào đất mẹ, chứng kiến người thân chết do tai nạn, chết do chiến tranh, chết do bệnh, chết do già, chết do tự tử. Ai cũng phải chết, không ai là không chết, đó là cái chết của thân tướng trở về với đất mẹ. Nhưng cái chết của những con người vì binh đao khói lửa, phải vùi thân tướng nằm xuống nơi đất mẹ, những người thân đau khổ khóc thành những dòng nước mắt của sự oán hận, oán hận của sự tham sân si của nhân loại mà gây ra vô số cuộc chiến tranh trên khắp Thế giới để cho oán khí nghi ngút khắp đất trời.

B.     Nguyên nhân của khổ đau do quy luật tự nhiên

Khổ đau do quy luật tự nhiên là sự thật hiển nhiên nó phải đến, phải xảy ra và sẽ trải qua ở môi trường tu hành nhân gian. Nó là khổ đau được xây dựng cho môi trường tu hành của Tuệ linh thông qua Chân lý Vạn vật, nên không có nguyên nhân khổ đau. Khổ đau do quy luật tự nhiên là phải đối mặt, không thể chạy trốn hay chạy thoát được.

Những khổ đau do quy luật tự nhiên chính là những kịch bản tương tác trong các môi trường sóng điện khác nhau để giúp Tuệ linh bộc phát độc và thiện tâm.

Những khổ đau do quy luật tự nhiên lại tạo thành vô số các kịch bản cũng như các môi trường tương tác khác để Tuệ linh thông qua thân tướng con người bộc phát được độc và thiện tâm.

C.     Phương pháp diệt khổ đau do quy luật tự nhiên

Phương pháp diệt khổ đau của quy luật tự nhiên là: “Chúng sinh, Tuệ linh và con người phải dùng chân tâm chạy đua với thời gian, hy sinh lợi ích của mình để mang lại lợi ích, niềm vui và hạnh phúc cho tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người”.

Khi chạy đua với thời gian để mang lại niềm vui hạnh phúc cho mọi người thì đó là Tâm đã dẫn dắt được Trí tuệ để điều khiển Thân tướng thực hành cải tạo Trụ linh, nên Tâm sẽ an vui mà diệt được khổ đau do quy luật tự nhiên tại kiếp người. Tuệ linh cũng hy sinh lợi ích mà chạy đua với thời gian để thông qua khổ đau kiếp nạn nhằm thấu hiểu, triệt bỏ được độc tâm và kích hoạt thiện tâm. Khi đó sẽ nhanh chóng chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.

Những cái khổ do quy luật tự nhiên phải đến và trải qua, không ai trốn thoát được. Trong khi một kiếp người thì có hạn, nó trôi qua rất nhanh, khi ta vừa sinh ra đã thấy già rồi, khi ta đang khỏe mạnh đã thấy bệnh rồi, khi ta đang bên nhau đã thấy chia ly rồi. Do đó nếu không chạy đua với thời gian để thấu hiểu vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người, thấu hiểu Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, tiếp tục chạy đua với thời gian để thực hành, cải tạo Vũ trụ quan thì sẽ lãng phí một kiếp người.

Lịch sử nhân loại của các quốc gia đã chứng minh rất rõ ràng sự giác ngộ khổ đau do quy luật tự nhiên. Đó là khi quốc gia có ngoại bang xâm lăng, tất cả những người con dân tộc cùng nhau đoàn kết ra chiến trường để đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ bình yên và hòa bình cho dân tộc, cho xóm làng. Nếu mỗi người dân không chạy đua với thời gian để đoàn kết đánh giặc mà lại nghĩ là khổ do quy luật tự nhiên, cứ đón nhận thì sẽ làm cho máu chảy đầu rơi trên khắp Đất nước, người người chìm trong tang thương khổ đau. Do đó quốc gia nào cũng có những bậc Thánh nhân có công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ cùng nhân dân của họ giác ngộ được khổ đau do quy luật tự nhiên, họ không màng thân xác, họ ra chiến trận để bảo vệ quê hương và dân tộc họ được hòa bình ấm no.

Một người bị bệnh thì cũng phải chạy đua với thời gian để chữa khỏi, để còn giúp cho gia đình, xã hội ngày càng tốt đẹp, chứ không phải có bệnh rồi mặc kệ đối mặt chờ chết.

Mọi người đều phải chạy đua với thời gian để khi chưa bệnh, khi chưa già, khi chưa tử biệt, để tận dụng thời gian kiếp người ngắn ngủi mà học tập và thực hành. Đó là học tập tri thức của hai Chân lý và thực hành cải tạo Trụ linh cho Tuệ linh. Khi cải tạo cho mình đồng nghĩa gắn liền với cải tạo Vũ trụ quan xung quanh. Nếu không chạy đua để học và thực hành cải tạo Trụ linh thì sẽ lãng phí kiếp người. Đặc biệt là sẽ phải luân hồi vô lượng kiếp và có nguy cơ bị hoại diệt Tuệ linh bởi thực hành cơ chế sản sinh năng lượng âm sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt vào phân rã.

Tất cả mọi người cùng nhau chạy đua thời gian để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho nhau sẽ tạo ra sức mạnh cải tạo vô cùng kỳ diệu cho cả Vũ trụ. Những năng lượng dương và các siêu năng lượng sẽ được hình thành để cấu trúc, vận hành sự sống của tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ trở nên bền vững.

6.3.  Khổ đau tại Tâm và phương pháp diệt khổ

Khổ đau tại Tâm là những cơn khổ đau xảy ra với Tâm mà ta không biết trước. Nó như những cơn bão bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng lượng đi qua Tâm trong cuộc đời của mỗi người. Mỗi đời người có từ vài cho tới rất nhiều cơn bão khổ đau đi qua Tâm. Những cơn bão khổ đau có khi nhẹ nhàng và cũng có khi dồn dập, thậm chí trong mỗi kiếp người cảm nhận như không thể vượt qua được sự đau khổ đó.

Khổ đau tại Tâm là Tâm ta bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng lượng trong ngôi nhà Thân tướng. Nguyên nhân bởi trí tuệ bám định vào các giả tướng mà không học tập để thấu hiểu tri thức của hai Chân lý. Điều đó dẫn tới Tâm

không hợp nhất được Thân và Trí để học tập và thực hành cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Vì vậy, Tâm đau khổ trong thân tướng vật chất và bị trí tuệ của thân tướng thực hành đời sống thỏa mãn giả tướng.

A.  Các khổ đau tại Tâm

Khổ đau tại Tâm gồm có 10 khổ đau. Mười khổ đau chính là mười giả tướng mà Tâm thấy khổ đau: Có, không có, yêu thương, thù ghét, có trí tuệ, không có trí tuệ, cầu được, cầu không được, hành động, không hành động. Trong mỗi một khổ đau tại Tâm lại có rất nhiều nội dung khổ đau nhỏ bên trong.

Mười khổ đau tại Tâm đó là:

  • Tâm đau khổ vào giả tướng có: Đó là Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng có. Đó là có địa vị, giàu sang, tiền tài, danh vọng… mà không thấu hiểu được Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh ở kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ bí bách của Tâm là vì trí tuệ chỉ biết bám định vào, vơ vét, giữ lấy các giả tướng mình đang có để thụ hưởng ích kỷ nơi thân tướng nó mà không chuyển hóa các giả tướng đó thành lợi ích cho chúng sinh, vạn vật, Tuệ linh và con người.
  • Tâm đau khổ vào giả tướng không có: Đó là Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng không có. Đó là không có địa vị, tiền tài, giàu sang, sức khỏe… mà không thấu hiểu được Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ bí bách của Tâm là vì trí tuệ chỉ biết bám định vào, vơ vét những giả tướng mà mình không có một cách ích kỷ về mình mà gây tổn thương cho mọi người và vạn vật, Tuệ linh.
  • Tâm đau khổ vào giả tướng yêu thương, sở thích: Đó là Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng yêu thương, sở thích. Đó là thông dâm, tà dâm, sắc dục, ngoại tình, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút… mà không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân tướng được thụ hưởng trụy lạc, sắc dục với giả tướng khác mà gây tổn thương cho vô số người khác và vạn vật, Tuệ linh.
  • Tâm đau khổ vào giả tướng thù ghét: Đó là Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng thù ghét. Đó là không thích ai đó, thù hận ai đó, không thích cái gì đó… mà không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào các giả tướng không thích hay thù ghét mà ích kỷ thỏa mãn sự thù hận để gây tổn thương cho mọi người và vạn vật, Tuệ
  • Tâm đau khổ vào giả tướng cầu được: Đó là Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng cầu được. Đó là cầu được danh, cầu được tiền tài giàu có, cầu được cờ bạc, cầu được tình duyên, cầu được con… mà không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân tướng cầu được cái mình không có để trở thành có, rồi luẩn quẩn trong các giả tướng có và yêu thích để vì ích kỷ về mình mà gây tổn thương đến mọi người và vạn vật, Tuệ linh.
  • Tâm đau khổ vào giả tướng cầu không được: Đó là Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng cầu không được. Đó là cầu không được địa vị, không được giàu có, không được con, không được cờ bạc, không được tình duyên… mà không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân tướng cầu mà không được nên ích kỷ dẫn đến thù ghét mà gây tổn hại mọi người và vạn vật, Tuệ linh.
  • Tâm đau khổ vào giả tướng có trí tuệ: Đó là Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng có trí tuệ. Đó là coi mình là người có trí tuệ hơn người, nghĩ mình có chức sắc, địa vị, giàu sang, bằng cấp, tầng lớp trí thức… mà không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân tướng mình có trí tuệ mà khinh khi, ngạo mạn, chà đạp người khác để thỏa mãn sự ngạo mạn về mình.
  • Tâm đau khổ vào giả tướng không có trí tuệ: Đó là Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng không có trí tuệ. Đó là coi mình là người nghèo hèn, không bằng cấp, lao động, nông dân, công nhân, không địa vị, không giàu có, không phải tầng lớp trí thức… mà không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân tướng mình u mê không có trí tuệ mà tự ti, sợ hãi khi gặp người giàu có, địa vị hay trí thức mà không cố gắng trau dồi trí tuệ để mang lại lợi ích cho mọi người và Vũ trụ, Tuệ linh.
  • Tâm đau khổ vào giả tướng hành động: Đó là Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng hành động. Đó là hành động tạo ác nghiệp, do không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân tướng hành động vì lợi ích ích kỷ về mình mà gây tổn thương mọi người và vạn vật, Tuệ linh.
  • Tâm đau khổ vào giả tướng không hành động: Đó là Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng không hành động. Đó là không hành động tạo thiện phước, do không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân tướng không hành động vì lợi ích cho mọi người nên gây tổn thương cho mọi người và vạn vật, Tuệ linh.

Mười khổ đau tại Tâm chính là các độc Tâm không dễ dàng để sinh khởi và bộc phát hết. Bởi những độc Tâm này nó là bản chất từ phôi âm dương gốc của mỗi Tuệ linh. Để bộc phát được hết độc Tâm, khổ đau tại Tâm, cần phải có sự tương tác trong bốn hình tướng Đạo với tất cả các kịch bản và môi trường sóng điện khác nhau. Có thể nói, mười khổ đau tại Tâm được bộc phát là điều tuyệt vời đối với dạng sống Tuệ linh.

Mười khổ đau tại Tâm cùng với các khổ đau của quy luật tự nhiên tạo thành tất cả các kịch bản tương tác trong mọi điều kiện sóng điện khác nhau của mỗi Tuệ linh tu hành ở nhân gian thông qua bốn hình tướng Đạo. Đây là thành công rực rỡ của hành trình tu hành của dạng sống Tuệ linh ở nhân gian. Đó là kết quả mong chờ của tất cả dạng sống Tuệ linh bởi đã có được môi trường tu hành hoàn hảo để giúp cho Tuệ linh giải mã được sự thật về tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ.

Kết quả của các khổ đau tại Tâm và của quy luật tự nhiên chính là kết quả của tất cả các độc Tâm đã được bộc phát hết. Đó là độc Tâm của Tuệ linh và con người được bộc phát hết. Đó là độc Tâm của vạn vật đều được bộc phát hết. Đó là độc Tâm của năng lượng hoại diệt được bộc phát hết.

B.  Nguyên nhân khổ đau tại tâm

Khổ đau tại Tâm là những độc Tâm được sinh khởi cho tới bộc phát hết bởi tất cả các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo với các môi trường sóng điện khác nhau. Như vậy, việc bộc phát được các khổ đau (độc tâm) là điều vô cùng tuyệt vời.

Nguyên nhân cội nguồn của khổ đau tại Tâm là vì dạng sống Tuệ linh chưa giải mã được thông tin toàn diện của chính mình, của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Vì chưa bộc phát hết độc Tâm cũng như thiện Tâm nên chưa có khả năng trưởng thành, chưa có cơ chế chuyển hóa năng lượng hoại diệt để duy trì sự phát triển bền vững của mình và Vũ trụ. Chính vì nguyên nhân cội nguồn này mà dẫn tới việc dạng sống Tuệ linh hóa thân làm con người để tu hành ở nhân gian. Tu hành ở nhân gian nhằm giải mã được vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là giải mã được độc Tâm và thiện Tâm của mình. Khi giải mã được sẽ tìm ra cơ chế chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Nguyên nhân trực tiếp của khổ đau tại Tâm:

  • Đầu tiên là do trí tuệ thân tướng không thấu hiểu về vạn vật, cội nguồn, sứ mệnh tu hành, tri thức hai Chân lý.
  • Tiếp đến là trí tuệ bám định vào giả tướng để thỏa mãn mà không tu học cũng như thực hành cải tạo Trụ linh cho Tâm. Do đó, Tâm sinh khởi và bộc phát đau khổ trong tất cả các kịch bản tương tác bởi bốn hình tướng Đạo ở nhân
  • Tâm đau khổ vì Tâm (Tuệ linh) là siêu vật chất lại phải an trụ trong thân tướng giản đơn, đã vậy lại không dạy bảo, chỉ dẫn được trí tuệ của thân tướng. Điều đó dễ dàng làm cho độc Tâm của Tuệ linh được bộc phát.

C.  Phương pháp diệt khổ đau tại Tâm

Phương pháp diệt khổ đau tại Tâm là: “Chúng sinh, Tuệ linh và con người phải dùng chân tâm chạy đua với thời gian, hy sinh lợi ích của mình để mang lại lợi ích, niềm vui và hạnh phúc cho tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người”.

Việc bộc phát được khổ đau, bộc phát được độc Tâm là điều vô cùng giá trị và tuyệt vời đối với dạng sống Tuệ linh. Quả thật không dễ dàng gì để Tuệ linh giải mã được bản chất của chính mình, của vạn vật và của cả năng lượng hoại diệt. Bởi khi giải mã được khổ đau tại tâm chính là giải mã được tận cùng của tất cả các kịch bản mà Tuệ linh không kiểm soát được năng lượng âm của phôi âm dương gốc cũng như toàn bộ Tuệ linh. Khi giải mã được những độc Tâm thì cũng chính là việc Tuệ linh đã giải mã được tất cả các kịch bản mà năng lượng hoại diệt xâm nhập vào làm phân rã Tuệ linh, đồng thời cũng là giải mã được những độc Tâm của vạn vật, Tuệ linh khác, con người khác tác động vào trong tất cả các kịch bản.

Khi giải mã và thấu hiểu được tất cả các khổ đau, các độc Tâm, Tuệ linh và con người phải thực hành quá trình mã hóa thông tin tốt cho việc phân tách và liên kết hạt năng lượng bền vững để Tuệ linh trưởng thành và chuyển hóa được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Phương pháp diệt khổ đó là:

  • Tất cả con người và Tuệ linh đều phải chạy đua với thời gian. Nếu không chạy đua với thời gian thì không biết còn cơ hội để cải tạo Trụ linh được hay không. Bởi chỉ cần khi Tuệ linh không kiểm soát được độc tâm sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt xâm nhập và làm phân rã Tuệ linh. Do đó thời gian không chờ đợi bất kỳ ai hay Tuệ linh nào cả.
  • Dùng chân tâm để học tập, thấu hiểu tri thức của hai Chân lý. Khi có tri thức của hai Chân lý sẽ giải mã được toàn bộ sự thật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Chân tâm chính là trạng thái mà con người có trí tuệ thấu hiểu và biết lắng nghe, biết phân tích đúng sai.
  • Cuối cùng là chuyển hóa những giả tướng mình có để mang lại niềm vui và hạnh phúc tới mọi người, vạn vật và Tuệ Đó chính là thực hành đời sống cống hiến vì vạn vật, Tuệ linh và con người.

Khổ đau tại Tâm giống như những cơn bão liên tục càn quét qua Tâm, mục đích là để giúp Trụ linh của Tuệ linh bộc phát triệt để hết các độc tâm và phải chuyển hóa để kích hoạt hết thiện Tâm. Do đó, con người chúng ta phải chạy đua với thời gian để có trí tuệ giác ngộ toàn diện. Có trí tuệ giác ngộ toàn diện sẽ giúp chúng ta có sức mạnh đương đầu và triệt tiêu hết tất cả các độc Tâm. Khi triệt tiêu được hết tất cả độc Tâm thì chúng ta phải kích hoạt hết tất cả các thiện Tâm.

Giữa độc Tâm và thiện Tâm cùng có chung cơn bão khổ đau. Bởi mỗi cơn bão khổ đau tại Tâm đều có chung nội dung đối xứng giữa độc và thiện. Nếu chúng ta mới chỉ triệt được độc Tâm mà chưa kích hoạt được thiện Tâm thì cơn bão đó sẽ vẫn tiếp tục tới. Chỉ khi nào chúng ta vừa triệt bỏ được độc và kích hoạt được thiện thì cơn bão khổ đau đó mới chấm dứt. Cứ như vậy, con người chúng ta phải triệt để vượt qua được 10 cơn bão khổ đau tại tâm và 6 cơn bão khổ đau của quy luật tự nhiên trong tất cả các kịch bản tương tác của bốn hình tướng Đạo ở nhân gian. Triệt được hết tất cả các độc Tâm sau khi bộc phát và kích hoạt được tất cả thiện Tâm mới giúp cho Tuệ linh có đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

7.   Kiểm soát độc tâm và kích hoạt thiện tâm của con người và Tuệ linh

Vô số Tuệ linh thông qua thân tướng con người tu hành ở nhân gian với tất cả các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo với các môi trường sóng điện khác nhau. Quá trình đó đã giúp cho mỗi Tuệ linh bộc phát được hết độc Tâm và kích hoạt được hết thiện Tâm. Việc bộc phát được hết độc Tâm và kích hoạt được hết thiện Tâm đã giúp cho vị Tuệ linh đầu tiên giải mã triệt để và tận cùng về sự thật của dạng sống Tuệ linh, của vạn vật cấu tạo thành Vũ trụ, của năng lượng hoại diệt. Từ đó, Ngài thấu hiểu tất cả các kịch bản liên kết phân tách theo các hướng phân rã hoại diệt hay bền vững của Tuệ linh và các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, thấu hiểu tận cùng khổ đau, phương pháp diệt khổ của Tuệ linh và tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

Các Tuệ linh muốn trưởng thành và chuyển sinh được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng thì phải xuống nhân gian tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo. Khi tu hành ở nhân gian trong tất cả các kịch bản tương tác bởi bốn hình tướng Đạo trong các môi trường sóng điện khác nhau sẽ giúp cho Tuệ linh bộc phát được hết độc Tâm và kích hoạt được hết thiện Tâm. Tuy nhiên, để mỗi Tuệ linh tự trải nghiệm cũng như bộc phát hết độc và thiện thì cần vô số kiếp tu hành ở nhân gian. Điều này sẽ mất quá nhiều thời gian và sự nguy hiểm cho mỗi Tuệ linh có bản chất Trụ linh đa âm.

Để giúp cho các Tuệ linh tu hành ở nhân gian nhanh chóng giải mã được độc Tâm và kiểm soát được độc Tâm khi nó sinh khởi bộc phát trong tất cả các kịch bản tương tác, vị Tuệ linh đầu tiên đã xây dựng ra bộ quy tắc không được phép vi phạm trong bốn hình tướng Đạo để giúp cho con người, Tuệ linh dễ dàng nhận diện được độc Tâm và kiểm soát để triệt bỏ độc Tâm khi nó sinh khởi cũng như bộc phát. Khi con người, Tuệ linh thấu hiểu bộ quy tắc này sẽ giúp cho họ nhận diện cũng như có trí tuệ để thấu hiểu và kiểm soát được độc Tâm. Kiểm soát được tất cả độc Tâm chính là thành tựu đã chuyển hóa được sóng điện trong hạt năng lượng âm gốc thành sóng điện âm rất nhẹ. Đây là điều kiện để Tuệ linh kích hoạt được thiện Tâm và chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Để giúp cho các Tuệ linh tu hành ở nhân gian nhanh chóng giải mã được thiện Tâm và kích hoạt được thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác, vị Tuệ linh đầu tiên đã xây dựng ra bộ quy tắc phải thực hiện được trong bốn hình tướng Đạo để giúp cho con người, Tuệ linh dễ dàng nhận diện được thiện Tâm và kích hoạt được thiện Tâm trong các tương tác. Khi con người, Tuệ linh thấu hiểu bộ quy tắc này sẽ giúp cho họ mã hóa cũng như có trí tuệ để thấu hiểu và kích hoạt được thiện Tâm. Kích hoạt được tất cả thiện Tâm chính là thành tựu đã chuyển hóa được sóng điện trong hạt năng lượng dương gốc thành sóng điện dương siêu mạnh. Đây là điều kiện để Tuệ linh chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

7.1.   Bộ quy tắc kiểm soát độc Tâm của Tuệ linh và con người

Bộ quy tắc không được phép vi phạm trong tương tác của mỗi con người với bốn hình tướng Đạo sẽ giúp cho mỗi con người giải mã và có trí tuệ thấu hiểu về khổ đau cũng như độc Tâm của mình. Tiếp đến là mỗi người thực hành kiểm soát và triệt tiêu độc Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác với bốn hình tướng Đạo. Việc thấu hiểu để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm sẽ giúp cho chúng ta thấu hiểu chính chúng ta cũng như tất cả con người, vạn vật, Tuệ linh trong quá trình tương tác đó.

A.  Hình tướng Đạo lễ

Hình tướng Đạo lễ là mối quan hệ tương tác trong gia đình, dòng họ, giữa vợ chồng, con cái, anh em, cha mẹ, tổ tiên, người sống với người đã mất. Đó là:

  • Con người không được phép bất hiếu với tổ tiên loài người: phỉ báng, chửi rủa Thiên Địa, xúc phạm những người có công xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
  • Con cháu không được phép bất hiếu với tổ tiên: chửi rủa, phá mồ mả, đập phá nơi thờ tự và tri ân gia tiên.
  • Con cái không được phép bất hiếu, bất nhân với cha mẹ: chửi rủa, chà đạp, đánh đập, bỏ mặc, giết hại cha mẹ và người nuôi dưỡng.
  • Vợ chồng không được phép bất nghĩa, bất nhân: ngoại tình, thông dâm, tà dâm, đánh đập, chà đạp nhân phẩm của nhau, bỏ nhau, giết hại nhau.
  • Anh em không được phép bất nghĩa, bất nhân: tranh giành lợi ích, đánh đập, chà đạp, giết hại nhau.
  • Cha mẹ không được phép bất nghĩa, bất nhân với con cái: bỏ rơi con cái, giết hại con cái, chà đạp đánh đập con cái, dạy con cái làm điều ác hại người.
  • Không được nạo phá thai
  • Không được sống độc thân.
  • Không được bỏ bố, bỏ mẹ, bỏ vợ, bỏ chồng, bỏ con cái để sống cuộc sống ích kỷ.

B.  Hình tướng Đạo đời

Hình tướng Đạo đời là đối nhân xử thế, mưu sinh, lao động sản xuất, tương tác với vạn vật. Cụ thể:

  • Không được sát sinh: giết hại muông thú, hành nghề sát sinh.
  • Không được thông dâm, tà dâm: khi đã lập gia đình và đang chung sống với nhau dưới sự bảo hộ của luật pháp quốc gia thì không được phản bội lại vợ chồng mà đi lấy thêm vợ, chồng hoặc thông dâm với người khác; không được hiếp dâm, không được lạm dụng tình cảm của người khác để thỏa mãn dục vọng.
  • Không được chửi rủa, chà đạp nhân phẩm người khác, không được đánh đập người khác.
  • Không được giết hại người khác và giết hại chính mình.
  • Không được buôn người: trẻ em, phụ nữ, nô lệ.
  • Không được hành nghề mại dâm.
  • Không được dối trên lừa dưới, không được lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác.
  • Không được trộm cắp, cướp của.
  • Không được phép sản xuất buôn bán những thứ gây tổn hại cho con người và muông thú, không được buôn bán và sản xuất những thứ mà pháp luật quốc gia không cho phép.
  • Không được lười lao động.
  • Người chủ lao động không được bóc lột sức lao động của người lao động, không được chửi rủa, không được chà đạp nhân phẩm, không được đánh đập và giết hại người lao động.

C.  Hình tướng Đạo đường

Hình tướng Đạo đường là con đường truyền dạy tri thức, trí tuệ của người thầy đối với người trò. Cụ thể:

  • Học trò không được phép bất kính, bất nhân với thầy: chửi rủa, chà đạp nhân phẩm, đánh đập, giết hại thầy.
  • Các học trò, các môn sinh không được gây mất đoàn kết, không được hãm hại nhau, không được chia rẽ xung đột.
  • Các môn sinh không được nói dối nhau, không được nói dối thầy.
  • Thầy không được phép bất nhân, bất nghĩa với trò: chửi rủa, chà đạp nhân phẩm, đánh đập, giết hại trò, dạy trò làm những điều ác, truyền dạy cho học trò đi ngược nhân quả vạn vật.
  • Thầy không được phép lợi dụng học trò để thỏa mãn ái dục và tà dâm.
  • Không được dùng tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo để lừa đảo hại người, trục lợi về mình, phá hủy giá trị đạo đức nhân văn của dân tộc và nhân loại.
  • Không được hành nghề mê tín dị đoan, bói toán, cúng cầu đi ngược Quy luật Nhân quả.
  • Không được tuyên truyền những mê tín dị đoan, những hệ tư tưởng tiêu cực, hệ tư tưởng cúng bái cầu xin, hệ tư tưởng đi ngược Quy luật Nhân quả.
  • Không được kích động, xung đột tôn giáo, không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền giáo lý sai khiến cho con người đánh mất giá trị đạo đức nhân văn tốt, khiến cho nhân loại u mê mà lừa hại hoại diệt lẫn nhau.

D.  Hình tướng Đạo Đế vương

Hình tướng Đạo Đế vương là mối quan hệ giữa những người lãnh đạo quốc gia và dân chúng đối với quốc gia dân tộc. Trong đó, dân tộc, lãnh thổ là chủ; vua quan, lãnh đạo và nhân dân là bề tôi. Cụ thể:

  • Vua, quan không được phép bất trung với quốc gia, dân tộc: kích động chiến tranh, đi chiến tranh xâm lược, tham ô tham nhũng, bán nước hại dân, đàn áp giết hại dân chúng, để người dân đói nghèo dịch bệnh.
  • Người dân không được phép bất trung với quốc gia: lười lao động, hành nghề mê tín dị đoan, xúi giục kích động phản động chia rẽ dân tộc, phản bội Tổ quốc, chạy trốn khi quốc gia lâm nguy.

Những quy tắc không được phép vi phạm trong bốn biểu hiện hình tướng Đạo chính là luật Nhân quả. Luật Nhân quả là luật công bằng, là sự phản chiếu lại nghiệp lực của chúng sinh đã tạo ra, nếu chúng sinh nào vi phạm vào những quy tắc của bốn biểu hiện hình tướng Đạo thì sẽ phải chịu quả nghiệp ở nhiều kiếp sau, thậm chí sẽ phải chịu quả nghiệp nhãn tiền trước mắt, và sau khi thoát tục cõi trần nhân sinh sẽ phải đọa vào các cửa ngục ngã quỷ.

Vị Tuệ linh đầu tiên đã xây dựng bộ quy tắc không được phép vi phạm trong bốn hình tướng Đạo, còn gọi là nhân quả là để giúp con người và Tuệ linh nhận diện và triệt bỏ được độc tâm, cũng như không thực hành con đường chuyển sinh phân rã hoại diệt. Nếu con người và Tuệ linh vi phạm vào tức là sản sinh năng lượng âm, đó là con đường chuyển sinh theo hướng hoại diệt Tuệ linh.

7.2.   Bộ quy tắc kích hoạt thiện Tâm của Tuệ linh và con người

Bộ quy tắc phải làm được trong tương tác của mỗi con người với bốn hình tướng Đạo sẽ giúp cho mỗi con người mã hóa và có trí tuệ thấu hiểu về phương pháp diệt khổ cũng như thiện Tâm của mình. Tiếp đến là mỗi người thực hành kích hoạt thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác với bốn hình tướng Đạo. Việc thấu hiểu để kích hoạt được thiện Tâm sẽ giúp cho chúng ta chuyển hóa được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

A.  Hình tướng Đạo lễ

Hình tướng Đạo lễ là mối quan hệ tương tác trong gia đình, dòng họ, giữa vợ chồng, con cái, anh em, cha mẹ, tổ tiên, người sống với người đã mất. Đó là:

  • Con người phải thấu hiểu Thiên Địa, thấu hiểu về vị Tuệ linh đầu tiên là Người Cha vĩ đại của Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Do đó phải tri ân đối với Thiên Địa.
  • Con cháu phải tưởng nhớ, tri ân với những vị anh hùng dân tộc đã có công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải tưởng nhớ và tri ân với cha ông đã hy sinh thân xác để xây dựng và bảo vệ quốc gia mình đang sinh sống.
  • Con cái phải báo hiếu cha mẹ: phụng dưỡng, chăm sóc, thậm chí hy sinh thân xác để bảo vệ cha mẹ.
  • Vợ chồng phải chung thủy tuyệt đối: yêu thương nhau, hy sinh vì nhau.
  • Anh em phải nghĩa tình viên mãn: đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ nhau.
  • Cha mẹ phải trả nghĩa con cái: dạy con cái thành người tốt, thấu hiểu đạo lý làm người, hy sinh vì con cái.
  • Phải kết hôn lập gia đình và chăm sóc gia đình hạnh phúc để duy trì phát triển nhân loại.

B.  Hình tướng Đạo đời

Hình tướng Đạo đời là đối nhân xử thế, mưu sinh, lao động sản xuất, tương tác với vạn vật. Cụ thể:

  • Phải thương yêu muông thú, bảo vệ muông thú, cứu giúp muông thú và vạn vật, bảo vệ thiên nhiên.
  • Phải tôn trọng những người khác giới, giữ các mỗi quan hệ khác giới trong sáng.
  • Phải giúp đỡ người khó khăn, khổ đau, hoạn nạn, nghèo khó.
  • Phải hy sinh lợi ích của mình để bảo vệ nhân loại, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho nhân loại.
  • Phải sống có nghĩa tình, phải giữ chữ tín đối với
  • Phải quan tâm chăm sóc người già, trẻ em, phụ nữ.
  • Kinh doanh, sản xuất phải tuân thủ pháp luật quốc gia và phải mang lại được lợi ích cho mọi người.
  • Phải chăm chỉ lao động, hăng say lao động sản xuất.
  • Người chủ lao động phải quan tâm, thương yêu và giúp đỡ người lao động.

C.  Hình tướng Đạo đường

Hình tướng Đạo đường là con đường truyền dạy tri thức, trí tuệ của người thầy đối với người trò. Cụ thể:

  • Học trò phải kính trọng thầy dạy.
  • Các học trò, các môn sinh phải đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau.
  • Các môn sinh phải nói lời thật tâm, phải chia sẻ thật.
  • Thầy phải yêu thương trò và phải truyền dạy cho trò thấu hiểu đạo lý làm người để cải tạo thế giới quan tốt đẹp hơn.
  • Thầy phải tôn trọng phẩm hạnh của học trò, tôn trọng và giữ gìn mối quan hệ trong sáng.
  • Phải tôn tạo và bảo tồn những giá trị trong sáng của tín ngưỡng văn hóa, của các dòng đạo.
  • Phải bài trừ mê tín, u mê lạc lối trong các tín ngưỡng,

trong các tôn giáo bởi sự cúng cầu trái Quy luật Nhân quả.

  • Phải thấu hiểu Thiên – Địa – Nhân, thấu hiểu Người Cha vĩ đại của Tuệ linh, con người. Phải thấu hiểu các dòng đạo đều là con dân của Ngài, do đó nhân loại phải đoàn kết, đoàn kết tôn giáo để cùng nhau cải tạo thế giới quan tốt đẹp hơn.
  • Thầy và trò phải phổ độ và truyền dạy những tri thức chuẩn mực của hai Chân lý để nhân loại cùng đón nhận và thực hành cải tạo Trụ linh cho Tuệ linh.

D.  Hình tướng Đạo Đế vương

Hình tướng Đạo Đế vương là mối quan hệ giữa những người lãnh đạo quốc gia và dân chúng đối với quốc gia dân tộc. Trong đó, dân tộc, lãnh thổ là chủ; vua quan lãnh đạo và nhân dân là bề tôi. Cụ thể:

  • Vua, quan phải xây dựng được quốc thái dân an, đời sống nhân dân ấm no, hòa bình, hạnh phúc, phải hy sinh lợi ích của mình để bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ lợi ích của dân tộc.
  • Người dân phải đoàn kết dân tộc, hăng say lao động sản xuất, hy sinh trí tuệ và thân xác để bảo vệ dân tộc, phát triển quốc gia ngày càng cường thịnh.
  • Phải đoàn kết nhân loại, phải bài trừ sự kích động dân tộc, bài trừ chiến tranh.

Những quy tắc phải làm được trong bốn biểu hiện hình tướng Đạo chính là luật giác ngộ. Thực hành được luật giác ngộ chính là thực hành được cơ chế phân tách và liên kết hạt năng lượng bền vững cho Tâm. Khi Trụ linh phân tách ra vô số những hạt năng lượng của sự hy sinh và cống hiến thì trong tương lai, trong các kiếp sau sẽ được liên kết lại để kế thừa thành tựu và tiếp tục hành trình chuyển sinh bền vững.

Những quy tắc phải làm được trong bốn hình tướng Đạo chính là để giúp con người và Tuệ linh mã hóa được thông tin chân thật và kích hoạt thiện Tâm. Bởi nếu vị Tuệ linh đầu tiên không xây dựng thành bộ quy tắc cũng như gọi là luật giác ngộ thì con người và Tuệ linh sẽ không thể tìm ra con đường siêu việt nhất để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Như vậy, bộ quy tắc không được phép vi phạm và bộ quy tắc phải thực hiện được của con người và Tuệ linh trong tất cả các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo chính là con đường chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Con đường này được bảo vệ bởi những quy tắc kiểm soát độc tâm và lực đẩy để nhanh tới đích là những quy tắc phải làm được. Có thể nói, hai bộ quy tắc này chính là sự cứu giúp Tuệ linh, con người, đó là động lực để Tuệ linh và con người nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ tu học ở nhân gian để trở về bảo vệ và phát triển bền vững trong và ngoài Vũ trụ.

8. Đạo của Vũ trụ hợp nhất ở Hình tướng và Tâm

Vị Tuệ linh đầu tiên đã từng nói: “Để tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, dạng sống Tuệ linh phải thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian”.

Đạo của Vũ trụ hợp nhất chính là Vũ trụ quan xung quanh Tuệ linh và con người. Tuệ linh và con người phải dùng Trụ linh để thấu hiểu, cải tạo, phát triển Vũ trụ quan trở nên bền vững.

Dạng sống Tuệ linh chưa giải mã được toàn diện chính bản chất trong Trụ linh của mình, chưa giải mã được tất cả sự thật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Do đó, họ chưa thấu hiểu cũng như cải tạo, phát triển Vũ trụ quan xung quanh họ trở nên bền vững, họ bị hoại diệt vô số. Vạn vật cấu tạo thành Vũ trụ cũng hoại diệt và tổn hao lớn, nguy cơ tất cả dạng sống trong và ngoài Vũ trụ sẽ hoại diệt. Chính vì vậy mà dạng sống Tuệ linh dưới sự dẫn dắt của vị Tuệ linh đầu tiên đã tạo ra môi trường tu hành ở nhân gian cho dạng sống Tuệ linh an trụ trong thân tướng con người giản đơn. Họ an trụ trong thân tướng con người giản đơn để tương tác với nhau, với tất cả các nhóm vật chất cùng lúc, trong tất cả các kịch bản và môi trường khác nhau thông qua bốn hình tướng Đạo. Điều này đã giúp cho vị Tuệ linh đầu tiên giải mã được toàn diện về Vũ trụ quan xung quanh dạng sống Tuệ linh. Đó là giải mã và thấu hiểu về cội nguồn, cấu trúc, cơ chế vận hành của tất cả các nhóm vật chất. Đó là giải mã và thấu hiểu được độc Tâm và thiện Tâm của chính họ và tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là năng lượng hoại diệt. Tiếp đến, Ngài đã tìm ra cơ chế để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng cho tất cả dạng sống Tuệ linh. Để mỗi Tuệ linh thực hành được cơ chế chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng thì tất cả các Tuệ linh phải hóa thân xuống nhân gian tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo. Khi tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo sẽ giúp cho tất cả Tuệ linh giải mã và thấu hiểu được toàn diện về Vũ trụ quan xung quanh họ. Cuối cùng là thực hành cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng để phát triển bền vững chính họ và Vũ trụ quan xung quanh họ.

Đạo của Vũ trụ là sự hợp nhất của hình tướng, là sự hợp nhất của Tâm, là sự hợp nhất giữa hình tướng và Tâm. Thấu hiểu và thực hành đúng sẽ giúp cho mỗi Tuệ linh và con người đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, đó là đắc được bộ lọc năng lượng.

8.1.  Đạo của Vũ trụ hợp nhất ở Hình tướng

Dạng sống Tuệ linh hóa thân thành con người để truy tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Vì vậy hình tướng Đạo của Vũ trụ hợp nhất tại hình tướng con người.

Hình tướng Đạo của Vũ trụ hợp nhất gồm có không gian hợp nhất, tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ hợp nhất, thời gian hợp nhất. Tất cả hợp nhất tại con người tạo thành bốn hình tướng Đạo.

Không gian hợp nhất gồm có không gian bên trong tinh cầu Vũ trụ và không gian bên ngoài tinh cầu Vũ trụ. Con người tồn tại bên trong không gian của Vũ trụ và chịu sự tương tác của tất cả các nhóm vật chất bên trong và bên ngoài Vũ trụ. Do đó, không gian trong và ngoài Vũ trụ hợp nhất tại con người.

Tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ hợp nhất tại con người. Bên ngoài Vũ trụ có nhóm vật chất cội nguồn và nhóm vật chất hoại diệt. Bên trong Vũ trụ có nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật chất. Tất cả năm nhóm vật chất tương tác với nhau trong sự thúc đẩy sự phát triển của nhau. Con người là đại diện của nhóm vật chất giản đơn bởi thân tướng và được Tuệ linh là đại diện của nhóm siêu vật chất an trụ bên trong. Con người sống và tương tác với tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Do đó, tất cả các nhóm vật chất tồn tại trong và ngoài Vũ trụ hợp nhất tại con người.

Thời gian hợp nhất tại con người. Thời gian gồm có quá khứ cội nguồn, hiện tại và tương lai. Thời gian quá khứ là từ hạt sóng xanh hình thành ra năng lượng hoại diệt cho tới khi hình thành tinh cầu năng lượng, tinh cầu năng lượng khổng lồ bị nổ và hình thành ra các dạng sống trong Vũ trụ, các Tuệ linh trải qua vô số kiếp tu hành ở nhân gian trong thân tướng con người. Thân tướng con người hiện tại là thời gian hiện tại, là kết quả của quá khứ từ cội nguồn trong sự vận động để có sự hiện hữu ở hiện tại. Những vận động, hành động chuyển sinh ở hiện tại của con người sẽ tạo thành kết quả ở tương lai. Từ quá khứ tới hiện tại được vận động, tồn tại, phát triển bởi cơ chế phân tách và liên kết dây. Từ hiện tại để kết tạo thành tương lai cũng phải được vận động thông qua cơ chế phân tách và liên kết dây.

Hình tướng Đạo của Vũ trụ hợp nhất bởi không gian, thời gian, sự tương tác của tất cả các nhóm vật chất ở mỗi con người tại môi trường tu hành Trái đất thông qua bốn hình tướng Đạo. Bốn hình tướng Đạo mà mỗi con người phải sống và tương tác trong nhiều kiếp tu hành là để tạo ra tất cả các kịch bản tương tác trong môi trường sóng điện khác nhau với tất cả các nhóm vật chất. Mục đích là thông qua bốn hình tướng Đạo hợp nhất tại con người là để Tuệ linh không có được sự tự do khi đang ở bên trong thân tướng con người, để bộc phát được độc Tâm và kích hoạt được thiện Tâm. Đặc biệt là phải thấu hiểu tất cả sự thật của tất cả các nhóm vật chất, chính mình, năng lượng hoại diệt để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Bốn hình tướng Đạo gồm có: Đạo đời, Đạo đường, Đạo Đế vương, Đạo lễ. Thông qua tất cả các kịch bản tương tác của mỗi con người trong bốn hình tướng Đạo nhằm thấu hiểu bản chất của Tâm và tìm được con đường chuyển hóa Tâm thành bộ lọc năng lượng.

8.2.  Đạo của Vũ trụ hợp nhất ở Tâm tướng

Vì hình tướng Đạo của Vũ trụ hợp nhất ở thân tướng con người, do đó Đạo của Vũ trụ hợp nhất cũng là ở Tâm tướng con người.

Tâm tướng chính là trạng thái năng lượng được sinh phát từ sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng tận cùng cho tới Trụ linh của Tuệ linh, của vạn vật, Tâm của con người.

Tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ đều được cấu tạo từ hạt năng lượng tận cùng. Trong hạt năng lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ và trạng thái năng lượng. Sợi mã sóng trí tuệ và trạng thái năng lượng bên trong hạt được gọi là Tâm.

Vũ trụ là tam hợp yếu tố mà thành. Dạng sống Tuệ linh được coi là trí tuệ sinh phát trạng thái năng lượng để vận hành hình tướng Vũ trụ. Trong Tuệ linh, cấu trúc Trụ trí sinh phát ra trạng thái năng lượng (Trụ tâm) để vận hành tướng Tuệ linh. Trụ trí và Trụ tâm của Tuệ linh được gọi là Trụ linh. Dạng sống Tuệ linh là bộ não, là trung tâm điều hành của cả Vũ trụ. Khi Tuệ linh hóa thân tu hành trong cơ thể con người để truy tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ thì Tâm của Vũ trụ chính là Tâm của con người.

Đạo của Vũ trụ hợp nhất tại Tâm tướng con người là vì:

  • Tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ đềukhổ đau, dạng sống Tuệ linh cũng khổ đau. Khổ đau chính là biến đổi mã sóng trí tuệ và xung đột trạng thái năng lượng trong cấu trúc tướng theo hướng phân rã và hoại diệt. Nguyên nhân của khổ đau là do các nhóm vật chất, Tuệ linh giải mã sai và không hoàn chỉnh về chính mình và vạn vật. Khi giải mã sai sẽ dẫn tới mất kiểm soát trong quá trình tương tác và chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt.
  • Dạng sống Tuệ linh hóa thân tu hành ở nhân gian để thông qua các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo nhằm giúp Tuệ linh bộc phát hết độc Tâm và kích hoạt được thiện Tâm. Khi triệt được hết độc Tâm và kích hoạt được hết thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác với tất cả vạn vật ở nhân gian sẽ giúp cho hóa thân của Tuệ linh là con người sẽ tìm được con đường diệt khổ đau. Con đường diệt khổ đau là hành trình để tới được đích của mục đích tu hành, đó là đắc được bộ lọc năng lượng.

Như vậy, Tâm của con người là Tuệ linh, Tuệ linh là tâm của Vũ trụ. Vì vậy, việc truy tìm được con đường giải thoát khổ đau và chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng của Tuệ linh ở nhân gian chính là tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ tại Tâm tướng con người.

8.3. Đạo của Vũ trụ hợp nhất giữa Hình tướng và Tâm tướng

Vì Đạo của Vũ trụ hợp nhất tại hình tướng và Tâm tướng của con người, mà giữa hình tướng và Tâm tướng là một chỉnh thể hợp nhất, nên Đạo của Vũ trụ hợp nhất giữa hình tướng và Tâm tướng của con người.

Đạo của Vũ trụ hợp nhất giữa hình tướng và Tâm tướng con người chính là việc thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian của mỗi con người để thấu hiểu độc tâm và thiện tâm của chính mình, của mọi người, của vạn vật, của năng lượng hoại diệt trong tất cả các kịch bản tương tác với các điều kiện môi trường sóng điện khác nhau, từ đó truy tìm được con đường triệt tiêu độc Tâm và kích hoạt được thiện Tâm của chính mình để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh sẽ sản sinh ra các siêu hạt năng lượng để cải tạo, phát triển tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ trở nên bền vững.

Vị Tuệ linh đầu tiên đã kiến tạo môi trường tu hành của Tuệ linh ở nhân gian một cách kỳ diệu. Đó là trói buộc Tuệ linh trong thân tướng giản đơn là con người để tương tác với nhóm vật chất giản đơn, với nhóm vật chất phức tạp, với nhóm siêu vật chất, với năng lượng hoại diệt, với con người. Sự trói buộc và tương tác với tất cả các nhóm vật chất thông qua bốn hình tướng Đạo sẽ giúp cho bản chất độc Tâm và thiện Tâm của Tuệ linh, của tất cả vật chất sẽ được bộc phát hết. Độc Tâm chính là khổ đau, là năng lượng âm. Thiện Tâm là giác ngộ, là năng lượng dương.

Độc Tâm và thiện Tâm chính là bản chất của Tâm. Tâm chính là Tâm Đạo của Vũ trụ. Độc Tâm và thiện Tâm được bộc phát triệt để thông qua tất cả các kịch bản tương tác của mỗi con người trong bốn hình tướng Đạo. Điều này sẽ giúp cho con người và Tuệ linh thấy được giá trị tuyệt vời của việc tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian để cải tạo Trụ linh thành được bộ lọc năng lượng.

A.  Hình tướng Đạo lễ

Thấu hiểu được độc Tâm bộc phát khi nào, khi nào triệt được độc Tâm, khi nào kích hoạt được thiện Tâm trong các nội dung của hình tướng Đạo lễ, khi đó chúng ta sẽ thấu hiểu và có niềm tin tưởng tuyệt đối ở bộ quy tắc không được phép vi phạm và bộ quy tắc phải làm được trong hình tướng Đạo lễ. Bởi đó là những chỉ dẫn của vị Tuệ linh đầu tiên để giúp cho Tuệ linh và con người ở nhân gian thấu hiểu cũng như thực hành nhanh nhất, siêu việt nhất để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.

Độc Tâm là khổ đau, là hạt năng lượng âm của Tâm. Hạt năng lượng âm được sản sinh bởi hành động thỏa mãn lợi ích ích kỷ về mình mà không màng hoặc gây tổn thương tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Thiện Tâm là giác ngộ, là hạt năng lượng dương của Tâm. Hạt năng lượng dương được sản sinh bởi hành động cống hiến vì vạn vật, Tuệ linh và con người mà không vì lợi ích ích kỷ của bản thân.

Hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương sẽ được sản sinh thông qua các nội dung trong hình tướng Đạo lễ như sau:

  • Nội dung trong quyết định kết hôn: Hôn nhân là nhiệm vụ của mỗi một con người để duy trì nòi giống mà vị Tuệ linh đầu tiên đã đặt ra, đặc biệt là để có các kịch bản tương tác trong hình tướng Đạo lễ. Bởi các kịch bản tương tác trong hình tướng Đạo lễ không thể thiếu trong việc giúp Trụ linh của Tuệ linh bộc phát được độc Tâm và kích hoạt được thiện Tâm. Khi một người, dù trong thân tướng nam giới hay nữ giới, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, họ phải đứng trước sự quyết định của hôn nhân. Đó là từ bỏ cuộc hôn nhân để sống cuộc sống độc thân và an nhàn hoặc quyết định kết hôn để xây dựng cuộc sống gia đình dù cuộc sống hôn nhân có đầy sóng gió. Khi đó, những quyết định sẽ tạo ra hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Quyết định sống độc thân để thỏa mãn sự an nhàn và không phải phiền não về cuộc sống gia đình: Khi quyết định như vậy, độc Tâm trong Trụ linh bắt đầu bộc phát và sẽ phân tách ra những hạt năng lượng âm vì Tuệ linh đau khổ không được thực hành cải tạo Trụ linh trong khi kiếp người ngắn ngủi. Nguyên nhân phân tách ra các hạt năng lượng âm là vì trí tuệ không hợp nhất với Tâm để quyết tâm tu học và chuyển hóa Trụ linh.

Quyết định kết hôn

+ Quyết định kết hôn để sống cuộc sống gia đình và sẵn sàng đương đầu cũng như chuyển hóa những sóng gió trong đời sống hôn nhân: Khi quyết định như vậy là Trụ linh đã kiểm soát và triệt được độc Tâm không cho bộc phát ở nội dung hôn nhân. Đặc biệt Trụ linh bắt đầu kích hoạt thiện Tâm, đó là phân tách ra những hạt năng lượng dương của sự cống hiến và mang lại giá trị tốt đẹp cho mọi người trong cuộc sống hôn nhân.

  • Nội dung vợ chồng mới kết hôn: Cuộc sống hôn nhân tạo ra vô số các kịch bản tương tác để bộc phát độc Tâm cũng như kích hoạt được thiện Tâm. Trước khi kết hôn, những thói quen, những cái tôi ích kỷ cho bản thân vẫn chưa được bộc phát ở cả người nam và người nữ. Tuy nhiên, sau khi kết hôn, sự hòa hợp, sự bất đồng trong quan điểm sống của vợ chồng mới kết hôn sẽ làm bộc phát tất cả những cái tôi ích kỷ, những sự bất hòa, những điểm chưa hòa hợp trong môi trường mới. Khi đó, những quyết định từ hai vợ chồng sẽ tạo ra hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Khi mỗi người giữ nguyên cái tôi ích kỷ, giữ nguyên những suy nghĩ cho đến hành động tiêu cực về nhau trong những bất đồng về cuộc sống, Trụ linh sẽ phân tách ra những hạt năng lượng âm. Nguyên nhân là kịch bản tương tác trong cuộc sống vợ chồng mới kết hôn đã khiến cho bộc phát độc Tâm.

+ Mỗi người quyết định bỏ cái tôi ích kỷ, bỏ những suy nghĩ và hành động tiêu cực để hòa hợp với nhau, để mang lại hạnh phúc cho nhau, khi đó, Trụ linh sẽ phân tách ra những hạt năng lượng dương của sự phát triển hạnh phúc gia đình. Những quyết định đã giúp Trụ linh kiểm soát, triệt tiêu được độc Tâm và đặc biệt là kích hoạt được thiện Tâm.

  • Nội dung người vợ hoặc chồng không có khả năng sinh con: Đây là một kịch bản tương tác dễ dàng khiến cho con người bộc phát độc Tâm. Khi người vợ hoặc người chồng không có khả năng sinh con, trong nhiều hoàn cảnh cũng như áp lực từ những người thân trong gia đình, người vợ và người chồng sẽ có những quyết định đầy khó khăn. Những quyết định tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

người vợ hoặc chồng không có khả năng sinh con

+ Một trong hai người không vượt qua được những áp lực, những mong cầu có con từ chính bản thân và từ những người thân. Hai người đưa ra quyết định ly hôn để giải thoát cho nhau với mong muốn sẽ có con với người khác. Nếu quyết định theo hướng này, Trụ linh của cả hai sẽ sản sinh ra hạt năng lượng âm, đó là độc tâm đã bộc phát. Người không có khả năng có con sẽ đau khổ, oán hận mà sản sinh ra hạt năng lượng âm. Người mong muốn có con mà phá vỡ hạnh phúc gia đình sẽ sản sinh hạt năng lượng âm. Nguyên nhân là cả hai không vượt qua được giả tướng con cái trong hoàn cảnh áp lực dẫn tới độc tâm bộc phát và không kiểm soát được.

+ Cả hai người cùng tìm giải pháp khác, có thể là nhận con nuôi hay can thiệp bằng y học để quyết tâm xây dựng hạnh phúc gia đình. Đây là quyết định khó khăn và cần nghị lực để vượt qua những áp lực từ những người thân. Vì thấu hiểu giá trị hạnh phúc vợ chồng cần phải trao cho nhau, vì đã hy sinh và cống hiến cho nhau, nên từ Trụ linh của cả hai đã kiểm soát và triệt bỏ được độc Tâm, đồng thời kích hoạt được thiện Tâm, đó là sản sinh ra các hạt năng lượng dương của tình yêu và đoàn kết.

  • Nội dung người vợ mang thai: Khi người vợ mang thai, trong nhiều hoàn cảnh họ đấu tranh tư tưởng và đi đến quyết định là phá bỏ thai nhi hoặc giữ lại để sinh và nuôi con trưởng thành. Cuộc sống mỗi người có những tương tác và hoàn cảnh khác nhau, hoàn cảnh khác nhau tạo thành sóng điện chi phối quyết định của mỗi con người. Khi đứng trước việc có thai trong những hoàn cảnh không mong muốn sinh con, dù hoàn cảnh như thế nào thì việc quyết định theo hai hướng sẽ sản sinh ra những hạt năng lượng khác nhau:

người vợ mang thai

+ Người vợ, người chồng vì thấy hoàn cảnh khó khăn, vì thấy thai nhi bệnh tật mà quyết định phá thai để không phải vướng bận cũng như vất vả hơn trong cuộc sống cho chính mình và con cái. Nếu quyết định phá bỏ thai nhi thì đó là hành động của u mê không thấu hiểu việc được làm người là vô cùng quý trọng đối với bất kỳ Tuệ linh hay linh hồn nào. Bởi được làm người là để được tương tác trong tất cả các kịch bản để bộc phát độc Tâm và học cách triệt bỏ được độc

Tâm cũng như kích hoạt thiện Tâm. Khi phá bỏ thai nhi, Trụ linh của người cha, người mẹ sẽ phân tách ra hạt năng lượng âm của sự giết người. Đó là độc Tâm bộc phát rất mạnh.

+ Người vợ, người chồng quyết tâm vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn để giữ thai nhi, để sinh con và nuôi dưỡng con thành người. Đó là hạnh động giúp cho Trụ linh của người vợ và người chồng phân tách ra hạt năng lượng dương. Việc phân tách được hạt năng lượng dương chính là thiện Tâm được kích hoạt, đồng thời cũng triệt và kiểm soát không cho độc Tâm bộc phát.

  • Nội dung quyết định có hay không ngoại tình: Cuộc sống sau hôn nhân sẽ khiến cho mỗi người cảm thấy nhàm chán, dần dần nó có cơ hội bộc phát những độc Tâm bởi các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo. Khi một người đã có gia đình, vì sự nhàm chán trong tình yêu, vì sự khuyết điểm của nhau, vì sự không hạnh phúc hay hòa hợp về nhau, thậm chí là thích sự mới mẻ trong cuộc sống tình yêu, chỉ cần tương tác với một người khác mà cảm thấy được sự ấm áp cũng như thỏa mãn được mong muốn, người vợ hoặc người chồng sẽ có hai hướng đưa ra quyết định cho việc sản sinh hạt năng lượng:

+ Quyết định ngoại tình để thỏa mãn sự mong muốn về tình yêu hạnh phúc hơn vợ chồng đang có, để thỏa mãn sự đổi mới: Quyết định này khiến cho Trụ linh sản sinh ra hạt năng lượng âm. Đó là độc Tâm đã bị bộc phát. Nguyên nhân vì trí tuệ bám định vào giả tướng của kịch bản tương tác mà không thấu hiểu cũng như kiểm soát được độc Tâm để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

ngoại tình

+ Quyết định triệt bỏ từ suy nghĩ cho tới hành động ngoại tình: Người vợ, người chồng cư xử chuẩn mực với mọi người khác giới bên ngoài, quyết tâm xây dựng hạnh phúc gia đình trong sự triệt bỏ cái tôi ích kỷ để mang lại hạnh phúc cho nhau, cho gia đình. Trụ linh khi đó sẽ phân tách ra các hạt năng lượng dương của sự cống hiến và hy sinh vì gia đình. Hạt năng lượng dương chính là thiện Tâm được kích hoạt, đồng thời thiện tâm đã triệt và kiểm soát để không cho độc Tâm bộc phát.

  • Nội dung đối mặt với người vợ hoặc người chồng ngoại tình: Đối mặt với người vợ hoặc người chồng ngoại tình sẽ khiến cho mỗi người rất khó kiểm soát được cảm xúc và quyết định. Tình yêu vi phạm chuẩn mực giá trị đạo đức là nội dung tương tác khiến cho vô số Tuệ linh gục ngã ở nhân gian tu hành này. Dù trong hoàn cảnh nào, sự đối mặt và đưa ra các quyết định khi người vợ hoặc người chồng ngoại tình sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Người vợ hoặc người chồng quyết định không tha thứ và cảm hóa người chồng hoặc người vợ đã có hành vi ngoại tình. Biết rằng lỗi lầm là của người đã có hành vi ngoại tình, tuy nhiên việc không tha thứ cũng như không cảm hóa người có hành vi ngoại tình sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra hạt năng lượng âm của sự chấp ngã và oán hận vì hành vi ngoại tình của người chồng hoặc người vợ. Như vậy độc Tâm đã bộc phát nhưng không kiểm soát được.

ngoại tình

+ Người vợ hoặc người chồng đưa ra quyết định là tha thứ, đồng thời cảm hóa người ngoại tình để thay đổi và xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc. Khi đó Trụ linh sẽ phân tách ra các hạt năng lượng dương của sự vị tha và đoàn kết. Đó là thiện Tâm đã được kích hoạt, đồng thời thiện Tâm đã triệt và kiểm soát không cho độc Tâm bộc phát.

  • Nội dung người chồng cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập: Người chồng nghiện ngập, rượu chè, cờ bạc là một kịch bản rất thú vị, thú vị cho những người thân xung quanh và người vợ. Tất nhiên việc người chồng nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè là thực hiện sản sinh năng lượng âm. Tuy nhiên trong kịch bản nội dung tương tác này sẽ khiến cho người vợ và những người thân đưa ra những quyết định tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Người vợ không chịu đựng được người chồng nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè mà đưa ra quyết định ly hôn, thậm chí trong nhiều hoàn cảnh là giết hại người chồng. Khi quyết định như vậy sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra hạt năng lượng âm. Đó là độc Tâm đã được bộc phát. Nguyên nhân là Quy luật Nhân quả có sự phản chiếu từ tiền kiếp, vì không thấu hiểu nên dẫn tới không kiểm soát được độc Tâm và đã để độc Tâm bộc phát.

hồng nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè

+ Người vợ và những người thân có quyết định tha thứ, có giải pháp để cảm hóa người chồng không còn nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè. Khi đó Trụ linh sẽ sản sinh ra những hạt năng lượng dương của sự cảm hóa giúp nhau triệt được độc Tâm. Đó là thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát, triệt bỏ được độc Tâm của chính mình và của người chồng.

  • Nội dung vợ chồng bất nhân, bất nghĩa hay hy sinh vì nhau: Đúng là cuộc sống tương tác trong hình tướng Đạo lễ đã tạo ra vô số kịch bản để bộc phát độc Tâm cũng như kích hoạt được thiện Tâm. Mối quan hệ cuộc sống của vợ chồng là kịch bản biến hóa thành các kịch bản mới vô cùng phong phú. Khi vợ chồng sống với nhau, trải qua những biến cố cuộc sống, những cái tôi ích kỷ bộc phát, những so sánh thiệt hơn, những thỏa mãn hay không thỏa mãn đã đưa ra những quyết định của cả hai vợ chồng để tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

vợ chồng bất nhân, bất nghĩa hay hy sinh vì nhau

+ Vợ chồng bất nhân, bất nghĩa với nhau: Đó là những quyết định đã tạo thành hành động chà đạp nhân phẩm nhau, xúc phạm nhau, đánh đập nhau, bỏ nhau, giết hại nhau. Những quyết định này khiến cho Trụ linh phân tách ra nhiều hạt năng lượng âm. Đó là độc Tâm đã bộc phát và không kiểm soát được. Nguyên nhân vì trí tuệ bám định vào các giả tướng để thỏa mãn ích kỷ cho bản thân mình mà gây tổn thương tới người vợ hoặc chồng.

+ Vợ chồng tình nghĩa và hy sinh vì nhau: Đó là những suy nghĩ cho tới những hành động yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, tôn trọng nhau, bảo vệ nhau, hy sinh vì nhau. Những hành động đó khiến cho Trụ linh phân tách ra những hạt năng lượng dương của tình thương và đoàn kết. Đó là những thiện Tâm đã được kích hoạt, đồng thời thiện Tâm đã kiểm soát và triệt được độc Tâm.

  • Nội dung người vợ hoặc người chồng chết mà chưa có con: Đây là những kịch bản phải có trong hành trình tu hành của các Tuệ linh ở nhân gian. Khi người vợ hoặc người chồng chết mà hai vợ chồng chưa có con, kịch bản này tạo thành những quyết định của người còn lại trong cuộc sống. Những quyết định tạo thành hai hướng sản sinh ra hạt năng lượng:

vợ hoặc người chồng chết mà chưa có con

+ Người vợ hoặc người chồng ở vậy và không kết hôn tiếp. Vì vẫn chưa có con nên nếu có suy nghĩ cho đến hành động quyết định ở vậy cả đời sẽ là sản sinh hạt năng lượng âm trong Trụ linh. Bởi vì chưa có con, chưa trải nghiệm các tương tác trong cuộc sống vợ chồng, nên nếu quyết định như vậy sẽ phí hoài một kiếp người ngắn ngủi. Trường hợp này giống như một người quyết định sống độc thân. Hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã bộc phát vì sự ích kỷ của bản thân.

+Người vợ hoặc người chồng tiếp tục lập gia đình để xây dựng các kịch bản tương tác trong hình tướng Đạo lễ. Bởi vì chưa có con nên không phải hy sinh cho con. Do đó khi quyết định thực hành đời sống hôn nhân mới trong sự thấu hiểu và trân trọng giá trị gia đình, Trụ linh sẽ phân tách ra các hạt năng lượng dương. Hạt năng lượng dương là thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt bỏ độc Tâm.

  • Nội dung người vợ hoặc người chồng chết mà đã có con: Trong kịch bản tương tác khi mà người vợ hoặc người chồng chết, nhưng đã có con, trường hợp này đã có con để cống hiến và hy sinh cho con được những điều tốt đẹp nhất để con trở thành người tốt, đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi để thực hành cải tạo Trụ linh trong các kịch bản tương tác khác. Những quyết định đưa ra sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

vợ hoặc người chồng chết mà đãcó con

+ Người vợ hoặc người chồng quyết định kết hôn tiếp. Đây là một canh bạc vì sẽ gây tổn thương tới đứa con, gây tổn thương tới người đã mất. Bởi kế hoạch cái chết là để giúp người ở lại bộc phát và kiểm soát được độc Tâm. Khi người ở lại ham muốn giả tướng mà quyết định kết hôn tiếp, Trụ linh sẽ phân tách ra các hạt năng lượng âm. Đó là độc Tâm đã bộc phát vì không có sự hy sinh cũng như cống hiến cho con, trả nghĩa vì người đã chết. Đặc biệt sẽ không có thời gian cải tạo Trụ linh vì mải mê trong mối tình mới.

+ Người vợ hoặc người chồng ở vậy nuôi con thành tài. Đây là sự cống hiến hy sinh vì con cái. Khi con cái trưởng thành, cũng là thời gian quý báu để thực hành cải tạo Trụ linh thông qua con đường phổ độ tri thức giác ngộ tới mọi người. Trụ linh sẽ sản sinh ra các hạt năng lượng dương của sự hy sinh, cống hiến cho con cái và xã hội. Đó là thiện Tâm đã được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.

  • Nội dung người vợ hoặc chồng mắc bệnh: Nội dung kịch bản tương tác này sẽ tạo ra những quyết định của người vợ, người chồng đối với người mắc bệnh. Những quyết định tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

bỏ mặc người chồng hoặc vợ đang bị bệnh

+ Người vợ hoặc người chồng vì hoàn cảnh nào đó mà đưa ra quyết định bỏ mặc người chồng hoặc vợ đang bị bệnh. Khi có suy nghĩ cho tới hành động bỏ mặc sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra năng lượng âm. Người bị bỏ mặc cũng oán hận mà sản sinh ra năng lượng âm. Như vậy vừa bộc phát độc Tâm của mình và khiến người vợ hoặc chồng cũng bộc phát độc Tâm.

+ Người vợ hoặc người chồng chạy đua với thời gian, hy sinh công sức, tiền của để cứu chữa người chồng hoặc vợ đang bị bệnh. Sự hy sinh và cứu giúp sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương của tình yêu và sự hy sinh. Đó là thiện Tâm được kích hoạt cho cả vợ và chồng, từ đó sẽ triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.

  • Nội dung cha mẹ với con cái: Nội dung tương tác của cha mẹ với con cái có rất nhiều nội dung, nội dung sẽ là hành trình từ con còn bé cho tới khi cha mẹ hoại diệt thân tướng. Trong nội dung của cha mẹ với con cái chỉ đưa ra nội dung tổng hợp, trong từng nội dung nhỏ, chúng ta đều vận dụng trên trục tọa độ sản sinh hạt năng lượng. Những quyết định của cha mẹ đối với con cái tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

Cha mẹ không cống hiến cho con cái

+ Cha mẹ không cống hiến cho con cái từ chuyện học hành, nuôi dạy đúng đắn thành người, cha mẹ chửi bới con cái, đánh đập con cái, xúc phạm con cái, bỏ mặc con cái, giết hại con cái. Những hành động đó khiến cho Trụ linh của cha mẹ sản sinh ra các hạt năng lượng âm của bất nhân, bất nghĩa. Những hạt năng lượng âm là những độc Tâm đã bộc phát và không kiểm soát được.

+ Cha mẹ có những quyết định hy sinh, cống hiến vì con cái, nuôi dạy con cái thành người tốt, bảo vệ con cái, thậm chí hy sinh cho con cái. Những quyết định này khiến cho Trụ linh của cha mẹ sản sinh ra những hạt năng lượng dương của tình nghĩa và sự hy sinh. Những hạt năng lượng dương là những thiện Tâm được kích hoạt cả ở cha mẹ và của con cái.

  • Nội dung con cái với cha mẹ: Nội dung tương tác của con cái với cha mẹ là các kịch bản tương tác của con cái trong sự báo hiếu, tri ân với cha mẹ. Nội dung này là tổng hợp của vô số các kịch bản tương tác giữa con cái với cha mẹ. Khi gặp từng nội dung nhỏ trong tương tác của con cái với cha mẹ, chúng ta áp dụng trục tọa độ sản sinh hạt năng lượng sẽ thấu hiểu và kiểm soát được độc Tâm cũng như kích hoạt được thiện Tâm. Những quyết định của con cái đối với cha mẹ sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

Nội dung con cái với cha mẹ

+ Con cái đưa ra những quyết định bất nhân, bất hiếu với cha mẹ: Bỏ mặc, xúc phạm, chà đạp nhân phẩm, giết hại cha mẹ. Khi đó Trụ linh sẽ phân tách ra những hạt năng lượng âm của sự u mê và dã tâm. Như vậy, độc Tâm bộc phát mà không kiểm soát được.

+ Con cái đưa ra những quyết định báo hiếu và hy sinh vì cha mẹ. Đây là những quyết định khiến cho Trụ linh của con cái phân tách ra những hạt năng lượng dương của báo hiếu và hy sinh. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt bỏ độc Tâm trong tương tác với cha mẹ.

  • Nội dung anh em trong gia đình: Nội dung tương tác trong anh em gia đình có nhiều kịch bản tương tác. Những quyết định đưa ra đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

anh em trong gia đình

+ Anh em tranh giành quyền lợi, lợi ích, chà đạp nhân phẩm, xúc phạm, giết hại nhau. Những hành động đó sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát.

+ Anh em không tranh giành, nhường nhịn nhau, cho nhau, giúp nhau, bảo vệ nhau, hy sinh vì nhau. Những hành động đó sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt bỏ được độc Tâm.

  • Nội dung con cháu với tổ tiên: Nội dung con cháu với tổ tiên có nhiều kịch bản tương tác, đó là sự tri ân và báo hiếu của con cháu với tổ tiên. Những quyết định trong nội dung con cháu với tổ tiên sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

con cháu với tổ tiên:

+ Con cháu phỉ báng tổ tiên, xúc phạm tổ tiên, phá hoại nơi thờ tự hay mồ mả của tổ tiên. Những hành động này sẽ khiến Trụ linh của con cháu phân tách ra những hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm là những độc Tâm đã bộc phát và không kiểm soát được.

+ Con cháu tri ân, tôn kính, bảo vệ mồ mả, bảo vệ nơi thờ tự tổ tiên. Những hành động này khiến cho Trụ linh phân tách ra những hạt năng lượng dương của sự tri ân báo hiếu với tổ tiên. Những hạt năng lượng dương là những thiện Tâm được kích hoạt và kiểm soát cũng như triệt bỏ được độc Tâm.

  • Nội dung con người đối với cội nguồn: Nội dung này có vô số các kịch bản, đó là phỉ báng Thiên Địa, hành nghề mê tín dị đoan, lợi dụng Thánh thần hay Thượng đế để lừa người và trục lợi về mình, bảo vệ sự tôn kính với Thiên Địa và tri ân cội nguồn của nhân loại. Những hành động sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

con người đối với cội nguồn

+ Những hành động phỉ báng cội nguồn Thiên Địa, lợi dụng Thánh thần để hành nghề mê tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo để mị dân: Những hành động này khiến Trụ linh sản sinh ra vô số những hạt năng lượng âm. Đó là những độc Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát.

+ Những hành động bài trừ mê tín dị đoan, bảo vệ sự trong sáng của cội nguồn cũng như tôn kính Thiên Địa: Những hành động này khiến Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Đó là những thiện Tâm được kích hoạt, đồng thời kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.

  • … Còn vô số nội dung tương tác với các hoàn cảnh khác nhau trong hình tướng Đạo lễ. Mỗi nội dung tương tác trong hình tướng Đạo lễ, chỉ cần áp dụng trục tọa độ sản sinh hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương là chúng ta sẽ thấu hiểu độc Tâm bộc phát khi nào, độc Tâm được triệt khi nào và thiện tâm được kích hoạt khi nào.

B.  Hình tướng Đạo đời

Thấu hiểu được độc Tâm bộc phát khi nào, khi nào triệt được độc Tâm, khi nào kích hoạt được thiện Tâm trong các nội dung của hình tướng Đạo đời, khi đó chúng ta sẽ thấu hiểu và có niềm tin tưởng tuyệt đối ở bộ quy tắc không được phép vi phạm và bộ quy tắc phải làm được trong hình tướng Đạo đời. Bởi đó là những chỉ dẫn của vị Tuệ linh đầu tiên để giúp cho Tuệ linh và con người ở nhân gian thấu hiểu cũng như thực hành nhanh nhất, siêu việt nhất để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.

Độc Tâm là khổ đau, là hạt năng lượng âm của Tâm. Hạt năng lượng âm được sản sinh bởi hành động thỏa mãn lợi ích ích kỷ về mình mà không màng hoặc gây tổn thương tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Thiện Tâm là giác ngộ, là hạt năng lượng dương của Tâm. Hạt năng lượng dương được sản sinh bởi hành động cống hiến vì vạn vật, Tuệ linh và con người mà không vì lợi ích ích kỷ của bản thân.

Hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương sẽ được sản sinh thông qua các nội dung trong hình tướng Đạo đời như sau:

  • Nội dung con người bảo vệ hay giết hại muông thú: Tại các cuộc tập kết nhân loại, vị Tuệ linh đầu tiên đã giao nhiệm vụ cho con người là thuần hóa muông thú để chúng cũng trở thành người tu hành cùng. Thuần hóa là để linh hồn của chúng có đủ năng lượng và duy trì được sự sống khi đầu thai làm con người. Tuy nhiên, cuộc sống sinh tồn của con người, những thú vui bởi giết hại và ăn thịt muông thú đã diễn ra không lâu sau cuộc tập kết nhân loại. Những quyết định bảo vệ hay giết hại muông thú sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

con người bảo vệ hay giết hại muông thú

+ Con người giết hại muông thú để thỏa mãn thú vui hoặc thỏa mãn sở thích ăn uống. Những hành động này khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm của sự giết hại. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Con người không giết hại muông thú, cứu giúp muông thú được sống tự do. Những hành động này khiến Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương của sự cứu giúp và bảo vệ. Những hạt năng lượng dương là thiện Tâm được kích hoạt và kiểm soát được độc Tâm của chính con người và chính linh hồn của muông thú khi chúng được cứu giúp.

  • Nội dung con người có hành nghề giết mổ hay không: Cuộc sống mưu sinh và những giá trị lợi ích của đồng tiền là những kịch bản để giúp bộc phát độc và thiện Tâm của Tuệ linh ở nhân gian. Những hành động quyết định hành nghề giết mổ hay không hành nghề giết mổ trong những hoàn cảnh của sự lựa chọn của các kịch bản này sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

hành nghề giết mổ

+ Con người quyết định hành nghề giết mổ để mưu sinh, để làm giàu, để thỏa mãn cuộc sống tốt đẹp hơn. Những hành động này khiến Trụ linh sản sinh vô số năng lượng âm và những linh hồn của muông thú cũng oán hận mà sản sinh vô số năng lượng âm. Như vậy, những hành động hành nghề giết mổ đã bộc phát vô số độc Tâm của con người và muông thú trong sự mất kiểm soát.

+ Con người quyết định không hành nghề giết mổ, con người tìm kiếm công việc khác để mưu sinh thay thế cho làm nghề giết mổ. Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương của sự không sát sinh. Đó là thiện Tâm được bộc phát và đã kiểm soát, triệt tiêu được độc Tâm.

  • Nội dung con người lười lao động hay chịu khó lao động: Sự vận động để sinh tồn, để phát triển trí tuệ, để phát triển cuộc sống, để cải tạo Trụ linh gắn liền với lao động sản xuất. Lười lao động hay chịu khó lao động là những quyết định tạo thành hai hướng sản sinh ra hạt năng lượng:

lười lao động sản xuất

+ Con người khi có những quyết định không chịu khó lao động sản xuất, lười lao động sản xuất. Những quyết định này khiến cho Trụ linh sản sinh hạt năng lượng âm. Nguyên nhân vì trí tuệ bám định vào giả tướng thích hưởng thụ và ghét lao động nên thân và Tâm không hợp nhất để cải tạo

Trụ linh trong kiếp người ngắn ngủi. Khi đó, độc Tâm đã bị bộc phát và mất kiểm soát.

+ Con người có những hành động chịu khó, chăm chỉ lao động sản xuất. Khi đó, Trụ linh sẽ phân tách ra những hạt năng lượng dương của sự cống hiến và phát triển cuộc sống. Những hạt năng lượng dương là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.

  • Nội dung của người lao động đối với chủ lao động: Mối quan hệ tương tác của người lao động với chủ lao động sẽ tạo thành những quyết định trong quá trình lao động. Những quyết định sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

người lao động đối với chủ lao động

+ Không chăm chỉ lao động, không cống hiến, phá hoại sản xuất cũng như công việc của chủ lao động: Những hành động này sẽ khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm là những độc Tâm đã bị bộc phát và mất kiểm soát.

+ Chăm chỉ lao động, cống hiến và tận tình trong công việc: Những hành động này khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng dương của sự cống hiến và tận tình. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát cũng như triệt tiêu được độc Tâm.

  • Nội dung của người chủ lao động với người lao động: Tương tác giữa chủ lao động với người lao động tạo ra vô số các kịch bản để bộc phát độc Tâm và kích hoạt thiện Tâm của cả hai đối tượng. Những quyết định của người chủ lao động với người lao động tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

người chủ lao động với người lao động

+ Người chủ lao động có những hành động chà đạp nhân phẩm người lao động, bóc lột sức lao động, đàn áp, đánh đập, thậm chí là giết hại người lao động. Những hành động này khiến cho Trụ linh của người chủ lao động sản sinh ra các hạt năng lượng âm của u mê và hành động độc ác. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát.

+ Người chủ lao động có những hành động quan tâm, giúp đỡ, cưu mang, tận tâm với người lao động. Những hành động này khiến cho Trụ linh của người chủ lao động sản sinh ra những hạt năng lượng dương mang đặc tính bảo vệ, cứu giúp và cống hiến. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt được độc Tâm của người chủ và người lao động.

  • Nội dung của việc kinh doanh vi phạm pháp luật hay không vi phạm pháp luật: Nội dung này có vô số những nội dung nhỏ khác bởi nội dung này có vô số các kịch bản tương tác. Những quyết định trong kinh doanh có vi phạm hay tuân thủ pháp luật sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

kinh doanh vi phạm pháp luật

+ Con người kinh doanh sản xuất vi phạm pháp luật như sản xuất, buôn bán những mặt hàng, nội dung mà pháp luật quốc gia sở tại cấm. Khi con người cố tình thực hiện các hành vi sản xuất kinh doanh những mặt hàng cấm sẽ khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Đó là những độc Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân vì trí tuệ

bám định vào giả tướng không có giàu sang mà vi phạm pháp luật để thỏa mãn sự giàu có.

+ Con người tuân thủ pháp luật, thực hành kinh doanh, sản xuất những mặt hàng, những điều mà pháp luật của quốc gia sở tại cho phép. Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương của sự tuân thủ mà không vi phạm vào pháp luật. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt bỏ được độc Tâm.

  • Nội dung của việc kinh doanh gây tổn hại hay có lợi ích cho con người và vạn vật: Nội dung này có nhiều kịch bản tương tác với vô số các lĩnh vực, mặt hàng kinh doanh gây hại hay mang lại lợi ích cho con người. Những tham lam về sự giàu sang hay những nhận thực của việc làm giàu chân chính đã tạo thành những quyết định sản sinh hạt năng lượng theo hai hướng:

+ Kinh doanh những sản phẩm, những mặt hàng, những vấn đề gây tổn hại tới đời sống, tới sức khỏe của con người, đó là những sản phẩm không chất lượng, những sản

phẩm giả, những thủ đoạn hại người: Những hành động kinh doanh như vậy sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Kinh doanh những sản phẩm chất lượng, những sản phẩm mang lại lợi ích cho con người, những sản phẩm an toàn với con người: Những hành động như vậy sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương của sự phát triển và cống hiến. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.

  • Nội dung có ăn chơi trụy lạc hay không: Trong các kịch bản tương tác của nội dung ăn chơi trụy lạc hay không ăn chơi trụy lạc có nhiều nội dung nhỏ. Đó là từ những thú vui hưởng thụ cho tới những tệ nạn gây nguy hiểm sức khỏe và tính mạng. Những quyết định lựa chọn lối sống sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

ăn chơi trụy lạc

+ Con người ăn chơi, trụy lạc, hưởng thụ mà không tu học cải tạo Trụ linh. Những hành động này khiến cho Trụ

linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm là những độc Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là vì trí tuệ bám định vào sự hưởng thụ giả tướng mà thỏa mãn các thú vui ăn chơi, gây tổn thương cho gia đình và chính mình. Trong khi một kiếp người thì ngắn ngủi, chỉ mải ăn chơi là sẽ không có cơ hội cải tạo Trụ linh.

+ Con người không ăn chơi trụy lạc, thay vào đó là chăm chỉ lao động, chăm chỉ học hành, thực hành đời sống cống hiến vì vạn vật và nhân loại. Những hành động này khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng dương của sự cống hiến. Những năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.

  • Nội dung tình yêu nam nữ: Trong nội dung tình yêu nam nữ có nhiều nội dung nhỏ. Đó là từ những tình yêu ở tuổi còn trẻ cho tới tiền hôn nhân. Những quyết định trong tình yêu nam nữ sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

tình yêu nam nữ

+ Tình yêu gắn liền với những lợi dụng thân xác để thỏa mãn sắc dục, lợi dụng và gây tổn thương cho nhau.

Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là trí tuệ u mê bám định vào sắc dục và tình yêu không trong sáng để thỏa mãn nhu cầu ích kỷ của bản thân.

+ Tình yêu gắn liền với những sự tôn trọng, trong sáng vì nhau, bảo vệ phẩm giá cho nhau, không lợi dụng gây tổn thương cho nhau. Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương của tình yêu và đoàn kết. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.

  • Nội dung có tà dâm hay không: Nội dung tà dâm có nhiều nội dung nhỏ khác nhau. Tà dâm là những hành vi pháp luật không cho phép, là những hành vi vi phạm đạo đức. Đó là những hành động ngoại tình, những hành vi hiếp dâm, những hành vi ấu dâm, những hành vi lợi dụng để thỏa mãn sắc dục. Những quyết định có hay không hành vi tà dâm sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

tà dâm

+ Con người thực hiện những hành vi tà dâm sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là trí tuệ u mê bám định vào giả tướng sắc dục nên khiến cho độc Tâm bộc phát.

+ Con người thực hiện những hành vi chuẩn mực, tôn trọng những người khác giới, bảo vệ cho nhau, không lợi dụng hay đáp ứng sự ham muốn sắc dục của người khác. Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương của sự bảo vệ và đoàn kết. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát cũng như triệt tiêu được độc Tâm.

  • Nội dung hành động giết người hay cứu người có rất nhiều kịch bản trong tương tác bởi bốn hình tướng Đạo. Đây có lẽ là các kịch bản tương tác vô cùng khốc liệt để bộc phát được độc Tâm và kích hoạt được thiện Tâm. Những hành động sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

giết người hay cứu người:

 

+ Những hành động giết người khác, hành động tự tử dù trong bất cứ hoàn cảnh nào đều khiến Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng âm của sự giết hại. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là bởi trí tuệ bám định vào thù ghét mà khiến độc Tâm bộc phát.

+ Những hành động cứu người trong tất cả các hoàn cảnh khác nhau đều khiến Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương của sự cứu giúp và hy sinh để bảo vệ. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.

  • Nội dung: Trong nội dung này cũng có nhiều nội dung nhỏ. Giúp người hay hại người chưa tới mức là giết hại. Tuy nhiên những hành động trong nội dung tương tác này đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

giúp người hay hãm hại người

 

+ Những hành động hãm hại người để thỏa mãn sự đố kỵ hay thù ghét đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là trí tuệ bám định vào giả tướng thù ghét hay đố kỵ mà bộc phát độc Tâm.

+ Những hành động giúp người vượt qua khó khăn hay kiếp nạn đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.

  • Nội dung trong: Các kịch bản trong mối quan hệ khác giới sẽ sinh phát thành các kịch bản trong nội dung ngoại tình. Do đó, những hành động trong nội dung mối quan hệ khác giới sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

mối quan hệ khác giới khi đã có gia đình

 

+ Lợi dụng trong tương tác cuộc sống để có những hành động không chuẩn mực, hành động khiếm nhã với người khác giới đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là các độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát trong mối quan hệ với người khác giới.

+ Trong tương tác với những người khác giới có những hành động tôn trọng, những hành động chuẩn mực sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu những độc Tâm.

  • Nội dung hành nghề mại dâm hay không: Cuộc sống khó khăn, những lợi thế về sắc đẹp và thân hình của những người nam và người nữ đã tạo thành nhiều kịch bản tương tác trong cuộc sống phải đưa ra quyết định bởi những cám dỗ. Những quyết định có hành nghề mại dâm hay không sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

hành nghề mại dâm

+ Thực hiện hành nghề mại dâm để thỏa mãn nhu cầu ái dục, để thỏa mãn nhu cầu tiền của, dù là lý do nào khác đi nữa, tất cả đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Không vì bất kỳ lý do nào, người nam hay người nữ đều đưa ra những quyết định không hành nghề mại dâm. Điều này đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được những độc Tâm trong các kịch bản tương tác trong cuộc sống.

  • Nội dung buôn bán hay cứu giúp họ: Có nhiều kịch bản cho nội dung này. Những quyết định cứu giúp hay buôn bán trẻ em và phụ nữ đều khiến cho Trụ linh có hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

buôn bán trẻ em phụ nữ

 

+ Thực hiện các hành vi buôn bán trẻ em và phụ nữ sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là do trí tuệ bám định vào giả tướng mong giàu sang nên khiến độc Tâm bộc phát.

+ Thực hiện các hành vi cứu giúp và bảo vệ trẻ em, phụ nữ đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng dương của sự cứu giúp và bảo vệ. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu độc Tâm.

  • Nội dung chà đạp nhân phẩm, đánh đập hay bảo vệ nhân phẩm và giúp đỡ: Nội dung này có vô số các kịch bản tương tác. Những quyết định đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

chà đạp nhân phẩm, đánh đập hay bảo vệ nhân phẩm và giúp đỡ

+ Những hành động chà đạp nhân phẩm, đánh đập người khác đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Những hành động bảo vệ nhân phẩm, giúp đỡ nhau đều khiến cho Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu những độc Tâm.

  • Nội dung trộm cướp, lừa đảo, lừa dối: Trong nội dung này lại có vô số các kịch bản tương tác khác nhau. Những quyết định và hành động trong nội dung này đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

trộm cướp, lừa đảo, lừa dối

+ Những hành vi cướp của, lừa đảo, lừa dối, chiếm đoạt đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Những hành động ngăn cản các hành vi cướp của của, lừa đảo, lừa dối đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.

  • … Còn vô số nội dung tương tác với các hoàn cảnh khác nhau trong hình tướng Đạo đời. Mỗi nội dung tương tác trong hình tướng Đạo đời, chỉ cần áp dụng trục tọa độ sản sinh hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương là chúng ta sẽ thấu hiểu độc Tâm bộc phát khi nào, độc Tâm được triệt khi nào và thiện tâm được kích hoạt khi nào.

C.  Hình tướng Đạo đường

Thấu hiểu được độc Tâm bộc phát khi nào, khi nào triệt được độc Tâm, khi nào kích hoạt được thiện Tâm trong các nội dung của hình tướng Đạo đường, khi đó chúng ta sẽ thấu hiểu và có niềm tin tưởng tuyệt đối ở bộ quy tắc không được phép vi phạm và bộ quy tắc phải làm được trong hình tướng Đạo đường. Bởi đó là những chỉ dẫn của vị Tuệ linh đầu tiên để giúp cho Tuệ linh và con người ở nhân gian thấu hiểu cũng như thực hành nhanh nhất, siêu việt nhất để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.

Độc Tâm là khổ đau, là hạt năng lượng âm của Tâm. Hạt năng lượng âm được sản sinh bởi hành động thỏa mãn lợi ích ích kỷ về mình mà không màng hoặc gây tổn thương tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Thiện Tâm là giác ngộ, là hạt năng lượng dương của Tâm. Hạt năng lượng dương được sản sinh bởi hành động cống hiến vì vạn vật, Tuệ linh và con người mà không vì lợi ích ích kỷ của bản thân.

Hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương sẽ được sản sinh thông qua các nội dung trong hình tướng Đạo đường như sau:

– Nội dung truyền dạy tri thức: Nội dung truyền dạy tri thức gồm có tri thức trong nhà trường, trong nền giáo dục, trong tôn giáo, trong tín ngưỡng, trong cuộc sống. Những nội dung truyền dạy có vô số, tuy nhiên tất cả nội dung truyền dạy đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Nội dung truyền dạy sai sự thật, mê mị, mê tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo để trục lợi, gây chia rẽ đoàn kết, gây chiến tranh, gây phân biệt. Những nội dung truyền dạy tri thức sai sẽ khiến cho Trụ linh của người truyền dạy sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân vì trí tuệ u mê không thấu hiểu sự thật của vạn vật nên dễ bộc phát độc Tâm và không có khả năng kiểm soát.

+ Nội dung truyền dạy đúng sự thật về cội nguồn, đúng bản chất, mang tính đoàn kết, mang tính xây dựng giá trị đạo đức, mang lại giá trị cải tạo đời sống và cải tạo Trụ linh.

Những tri thức được truyền dạy như vậy sẽ khiến cho Trụ linh của người truyền dạy phân tách ra vô số những hạt năng lượng dương của phổ độ. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát cũng như triệt được độc Tâm.

  • Nội dung Thầy đối với học trò: Trong nội dung Thầy đối với trò có vô số nội dung cũng như các kịch bản tương tác trong hình tướng Đạo đường. Những suy nghĩ cho đến hành động từ Thầy đối với trò sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Thầy truyền dạy tri thức sai, truyền bá mê tín dị đoan, không tôn trọng học trò, chà đạp nhân phẩm, đánh đập, xui khiến trò làm điều sai trái, giết hại học trò. Những hành động này sẽ khiến cho Trụ linh của người thầy sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm của người thầy đã được bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là trí tuệ của người thầy còn u mê và không thấu hiểu sự thật của vạn vật nên dễ dàng bộc phát độc Tâm.

+ Thầy truyền dạy tri thức đúng về bản chất và cội nguồn, những giá trị đạo đức, tôn trọng học trò, giúp đỡ học trò, cứu giúp học trò, hy sinh vì học trò. Những hành động này sẽ khiến cho Trụ linh của người thầy sản sinh ra vô số các hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm. Nguyên nhân vì người thầy có trí tuệ khai ngộ và thấu hiểu được bản chất của vạn vật nên dễ dàng kích hoạt được thiện Tâm cũng như triệt được độc Tâm nếu nó bộc phát.

  • Nội dung học trò đối với Thầy: Các kịch bản tương tác từ học trò đối với Thầy có vô số. Những suy nghĩ cho tới hành động của học trò tới Thầy đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Học trò thực hành những hành động đi ngược giá trị đạo đức mà Thầy truyền dạy, vi phạm đạo đức, chà đạp nhân phẩm của Thầy, xúc phạm, xuyên tạc lời Thầy dạy, đánh đập, phá hoại, giết hại Thầy. Những hành động này khiến cho Trụ linh của học trò sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những

hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là trí tuệ của học trò bám định vào giả tướng để thỏa mãn lợi ích ích kỷ nên dễ dàng khiến độc Tâm bộc phát.

+ Học trò nghe lời và thực hành những giá trị đạo đức mà Thầy truyền dạy, tôn kính, giúp đỡ, cống hiến cho xã hội và dân tộc bởi những tri thức được học từ Thầy. Những hành động này sẽ khiến cho Trụ linh của học trò sản sinh ra vố số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm. Nguyên nhân là học trò có trí tuệ khai ngộ và không bám định vào giả tướng, thay vào đó là sống đời sống cống hiến được học từ Thầy. Điều này khiến cho thiện Tâm dễ dàng được kích hoạt.

  • Nội dung học trò đối xử với nhau: Trong nội dung này có vô số kịch bản tương tác giữa những học trò, đồng môn với nhau. Những suy nghĩ cho tới hành động khác nhau đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Những học trò đố kỵ nhau, tranh giành hơn thua, chà đạp nhân phẩm nhau, mưu hại nhau, nói xấu nhau, đánh đập nhau, giết hại nhau. Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là trí tuệ học trò còn u mê và bám định giả tướng để thỏa mãn ích kỷ về mình nên dễ dàng bộc phát độc Tâm.

+ Những học trò quan tâm giúp đỡ nhau, bảo vệ nhau, đoàn kết, cống hiến vì nhau, thậm chí hy sinh cho nhau. Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra nhiều hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt bỏ được độc Tâm. Nguyên nhân là những học trò có trí tuệ khai ngộ, không còn bám định vào giả tướng, thay vào đó là xây dựng đời sống cống hiến nên dễ dàng kích hoạt được thiện Tâm.

  • Nội dung có chức sắc trong tôn giáo: Tương tác trong nội dung này có nhiều kịch bản trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những suy nghĩ cho tới hành động trong nội dung tương tác này cũng đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Lợi dụng chức sắc trong tôn giáo để tuyên truyền mị dân, tuyên truyền hành nghề mê tín dị đoan, tuyên truyền đi ngược Quy luật Nhân quả bởi xin cầu, kích động xung đột giữa các tôn giáo với nhau, lợi dụng chức sắc để lôi kéo mọi người và trục lợi: Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân vì trí tuệ u mê và bám định vào giả tướng để thỏa mãn ích kỷ cho bản thân nên dễ dàng bộc phát độc Tâm.

+ Không lợi dụng chức vụ trong tôn giáo, giúp đỡ mọi người, truyền dạy những giá trị đạo đức tuân thủ quy luật tự nhiên, tuyên truyền đoàn kết dân tộc và giữa các tôn giáo, cống hiến tri thức đạo đức tới mọi người: Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để triệt tiêu cũng như kiểm soát được độc Tâm. Nguyên nhân là trí tuệ của họ được khai ngộ, không bám định vào giả tướng, sống đời sống cống hiến cho nhân loại nên dễ dàng kích hoạt được thiện Tâm.

  • Nội dung có kiến thức tâm linh: Đối với con người, nội dung kiến thức tâm linh vô cùng huyền bí và có vô số kịch bản tương tác đối với nội dung này. Những suy nghĩ cho tới hành động trong nội dung này đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Lợi dụng kiến thức tâm linh để lừa người, ma mị và mê tín dị đoan, dẫn dụ mọi người cầu cúng, dẫn dụ mọi người vi phạm chuẩn mực đạo đức: Những hành động này khiến cho Trụ linh của người lợi dụng kiến thức tâm linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là trí tuệ u mê nên không thấu hiểu bản chất của tâm linh mà trục lợi về mình.

+ Không lợi dụng vào kiến thức tâm linh, chia sẻ sự thật của tâm linh trên cơ sở khoa học biện chứng và cơ chế vận hành của vạn vật để khai ngộ cho con người: Những hành động như vậy khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu độc Tâm. Nguyên nhân vì có trí tuệ khai ngộ về vạn vật Vũ trụ.

  • Nội dung có địa vị trong ngành giáo dục: Nội dung này có nhiều kịch bản tương tác. Tất cả từ những suy nghĩ cho tới hành động đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Lợi dụng chức sắc và địa vị trong ngành giáo dục để kìm hãm sự phát triển của nền giáo dục, gây tổn hại tới sự phát triển của ngành giáo dục: Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Tận dụng chức vụ hiện có trong ngành giáo dục để cống hiến cho nền giáo dục, nghiên cứu chính sách thúc đẩy phát triển ngành giáo dục, đổi mới có tính hiệu quả: Những hành động như vậy sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát cũng như triệt được độc Tâm.

  • Nội dung bảo vệ hay lợi dụng niềm tin tôn giáo và tín ngưỡng: Nội dung này có vô số kịch bản tương tác, bởi vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng là rộng lớn. Những suy nghĩ cho tới hành động trong tất cả các kịch bản của nội dung này đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Lợi dụng niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị đoan, lừa gạt người dân bởi cúng cầu: Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Bảo vệ tính trong sáng của tôn giáo và tín ngưỡng, bảo vệ giá trị tinh hoa của tôn giáo và tín ngưỡng trong việc giáo dục con người: Những hành động như vậy khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát độc Tâm.

  • Nội dung kích động xung đột hay đoàn kết tôn giáo: Trong nội dung này có vô số kịch bản tương tác trong các hoàn cảnh khác nhau. Những suy nghĩ cho tới hành động đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Kích động xung đột tôn giáo là những hành động vô cùng nguy hiểm. Nó khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm cực độc đã được bộc phát và mất kiểm soát hoàn toàn.

+ Bảo vệ và đoàn kết giữa các tôn giáo, trong nội tại mỗi tôn giáo chính là hành động khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.

  • Nội dung phổ độ hay phổ mê: Nội dung này có trong cả tôn giáo và nền giáo dục. Phổ mê là truyền dạy những tri thức sai trái đi ngược sự thật của vạn vật để khiến cho người chìm đắm trong u mê. Phổ độ là truyền dạy những tri thức thật sự và phơi bày được bản chất cũng như cội nguồn của vạn vật. Những hành động truyền dạy đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Phổ mê sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh vô lượng hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát hoàn toàn.

+ Phổ độ sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh vô lượng hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu độc Tâm.

  • … Còn vô số nội dung tương tác với các hoàn cảnh khác nhau trong hình tướng Đạo đường. Mỗi nội dung tương tác trong hình tướng Đạo đường, chỉ cần áp dụng trục tọa độ sản sinh hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương là chúng ta sẽ thấu hiểu độc Tâm bộc phát khi nào, độc Tâm được triệt khi nào và thiện tâm được kích hoạt khi nào.

D.  Hình tướng Đạo Đế vương

Thấu hiểu được độc Tâm bộc phát khi nào, khi nào triệt được độc Tâm, khi nào kích hoạt được thiện Tâm trong các nội dung của hình tướng Đạo Đế vương, khi đó chúng ta sẽ thấu hiểu và có niềm tin tưởng tuyệt đối ở bộ quy tắc không được phép vi phạm và bộ quy tắc phải làm được trong hình tướng Đạo Đế vương. Bởi đó là những chỉ dẫn của vị Tuệ linh đầu tiên để giúp cho Tuệ linh và con người ở nhân gian thấu hiểu cũng như thực hành nhanh nhất, siêu việt nhất để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.

Độc Tâm là khổ đau, là hạt năng lượng âm của Tâm. Hạt năng lượng âm được sản sinh bởi hành động thỏa mãn lợi ích ích kỷ về mình mà không màng hoặc gây tổn thương tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Thiện Tâm là giác ngộ, là hạt năng lượng dương của Tâm. Hạt năng lượng dương được sản sinh bởi hành động cống hiến vì vạn vật, Tuệ linh và con người mà không vì lợi ích ích kỷ của bản thân.

Hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương sẽ được sản sinh thông qua các nội dung trong hình tướng Đạo Đế vương như sau:

  • Nội dung người có địa vị, có quyền lực: Trong tất cả các tương tác của nội dung người có địa vị và quyền lực trong bộ máy điều hành Đất nước sẽ có vô số kịch bản tương tác. Tất cả những quyết định và hành động của người có quyền lực và địa vị đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Lợi dụng chức quyền để tham ô, tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, nhũng nhiễu dân, bán nước hại dân…: Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Tận dụng vị trí và quyền lực đang có để xây dựng các chính sách sử dụng nhân tài, sử dụng hiền tài, tuyển dụng nhân tài, xây dựng các chính sách phát triển bền vững cho dân tộc và Đất nước, không tham ô, không tham nhũng, không bán nước hại dân: Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát được độc Tâm.

  • Nội dung người lãnh đạo Đất nước: Những người đứng đầu lãnh đạo Đất nước dân tộc là những người được nhân dân lựa chọn. Trong mọi quyết định và hành động của họ đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Những người đứng đầu Đất nước tham ô tham nhũng, bán nước hại dân, tàn phá tài nguyên của Đất nước, xây dựng các chính sách ngu dân, xây dựng các chính sách không có lợi cho nhân dân, kích động và gây ra các cuộc chiến tranh, phản bội Tổ quốc. Những hành động này sẽ khiến Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Những người đứng đầu Đất nước thực hành đời sống cống hiến cho dân tộc, bảo vệ tài nguyên của Đất nước, bảo vệ và xây dựng Đất nước được phát triển bền vững, bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc, bài trừ chiến tranh, xây dựng Đất nước ổn định và cường thịnh. Những hành động như vậy khiến cho Trụ linh của họ sản sinh ra vô số những hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát cũng như triệt tiêu độc Tâm.

  • Nội dung người dân với Đất nước: Người dân trong tương tác với hình tướng Đạo Đế vương sẽ có vô số kịch bản tương tác xảy ra. Những quyết định hành động đều tạo thành hai hướng sản sinh ra hạt năng lượng:

 

+ Người dân lười lao động, hành nghề mê tín dị đoan, phản bội Tổ quốc, kích động dân tộc… Những hành động này sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm.

Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Người dân hăng say lao động sản xuất, bài trừ mê tín dị đoan, thực hiện đoàn kết dân tộc, bảo vệ chủ quyền và sự tự do của dân tộc. Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.

  • Nội dung tham nhũng hay cống hiến cho dân tộc Đất nước: Tham nhũng là vơ vét, chiếm đoạt của công về mình, cống hiến là hy sinh bản thân mình để vì lợi ích của dân tộc và Đất nước. Những quyết định trong nội dung trên tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Tham ô tham nhũng của cải của dân tộc, tiền tài của ngân khố về hưởng thụ cho mình và gia đình mình: Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Thực hành đời sống cống hiến cho dân tộc, cho Đất nước, đó là xây dựng những chính sách phát triển dân tộc, Đất nước mà không màng gì về mình: Những hành động như vậy khiến Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu độc Tâm.

  • Nội dung kích động dân tộc hay đoàn kết dân tộc: Những quyết định hay hành động trong các kịch bản của nội dung này đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Những hành động kích động xung đột dân tộc sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Những hành động đoàn kết dân tộc sẽ khiến Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.

  • Nội dung xâm chiếm hay bảo vệ hòa bình: Trong nội dung này có vô số các kịch bản và nội dung khác nhau. Tuy nhiên, từ những quyết định cho tới những hành động đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Xâm chiếm và gây ra chiến tranh sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát hoàn toàn.

+ Bảo vệ hòa bình, bảo vệ sự độc lập và tự do khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.

  • Nội dung khi Đất nước có dịch bệnh: Đây là nội dung với vô số các kịch bản xảy ra để giúp cho độc và thiện Tâm được bộc phát. Những quyết định trong tình hình Đất nước có dịch bệnh đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Lợi dụng tình hình dịch bệnh để tham ô tham nhũng, không có những chính sách và quyết liệt triệt tiêu dịch bệnh: Những hành động như vậy khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Trong tình hình Đất nước có dịch bệnh, chính quyền lãnh đạo và người dân cùng quyết liệt diệt dịch bệnh, lãnh đạo thực hiện những chính sách cứu trợ, cứu giúp dân chúng trong thảm cảnh của dịch bệnh: Những hành động đó khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.

  • Nội dung khi Đất nước nghèo đói: Đất nước nghèo đói tạo ra vô số các kịch bản tương tác của cả người dân và lãnh đạo của dân tộc. Những quyết định cho đến hành động đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Lãnh đạo Đất nước tham ô tham nhũng, nhiêu khê, không xây dựng được chính sách phát triển kinh tế để vượt qua nghèo đói. Người dân thì lười lao động. Tất cả sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số những hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Lãnh Đạo đất nước dẫn dắt nhân dân bằng những chính sách phát triển hữu hiệu để đưa dân tộc và Đất nước vượt qua nghèo khó. Người dân hăng say lao động sản xuất. Những hành động như vậy khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.

  • Nội dung khi Đất nước bị xâm lược: Khi Đất nước bị xâm lược là những kịch bản mà tất cả các Tuệ linh tu hành ở nhân gian phải trải qua. Khi có ngoại xâm xâm lược dân tộc và Đất nước, những hành động đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Lãnh đạo Đất nước không xây dựng được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân cũng như kinh tế vững mạnh sẽ khiến cho Đất nước dễ dàng bị xâm lược. Khi đó máu chảy đầu rơi, tang thương khắp mảnh đất. Như vậy sẽ khiến cho Trụ linh của những bậc lãnh đạo sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Lãnh đạo Đất nước xây dựng được những chính sách phát triển Đất nước trở nên cường thịnh. Sự cường thịnh chính là phòng thủ bảo vệ Đất nước tốt nhất. Lãnh đạo đàm phán để dân tộc được hòa bình khi có ngoại xâm. Nếu phải chiến tranh để bảo vệ dân tộc thì lãnh đạo phải đoàn kết dân tộc cùng nhau bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc. Giữ gìn được độc lập tự do mà không phải giết hại nhau mới khiến Trụ linh

sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương của thiện Tâm.

  • Nội dung lợi dụng hay tri ân các bậc thánh nhân: Những kịch bản tương tác trong nội dung tri ân các bậc thánh nhân là vô số. Những bậc thánh nhân là những người khai quốc và bảo vệ Tổ quốc. Họ được nhân dân các đời sau tri ân trưởng nhớ công ơn. Những hành động của người dân đối với các bậc thánh nhân đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Những con người lợi dụng hình ảnh của những bậc thánh nhân để hành nghề mê tín dị đoan sẽ khiến Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Những con người tri ân trong sự tôn kính và trong sáng tới các bậc thánh nhân, điều này khiến cho họ thực hành theo những hành động thiện mà các bậc thánh nhân khi sống đã làm. Trụ linh của họ sẽ sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương là những thiện Tâm đã được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.

  • Nội dung vơ vét tàn phá hay bảo vệ tài nguyên thiên nhiên: Đây là nội dung với vô số các kịch bản tương tác. Những quyết định trong nội dung này đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

 

+ Những hành động vơ vét, tàn phá tài nguyên thiên nhiên sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Những hành động bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của Đất nước sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.

  • … Còn vô số nội dung tương tác với các hoàn cảnh khác nhau trong hình tướng Đạo Đế vương. Mỗi nội dung tương tác trong hình tướng Đạo Đế vương, chỉ cần áp dụng trục tọa độ sản sinh hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương là chúng ta sẽ thấu hiểu độc Tâm bộc phát khi nào, độc Tâm được triệt khi nào và thiện tâm được kích hoạt khi nào.

Như vậy, thông qua bốn hình tướng Đạo với vô số các kịch bản tương tác trong mọi hoàn cảnh khác nhau đều giúp cho Tâm của con người bộc phát được độc Tâm, kiểm soát được độc Tâm, kích hoạt được thiện Tâm. Nếu độc Tâm nào đã bộc phát mà vẫn chưa triệt tiêu được sẽ phải thực hiện lại kịch bản đó trong nhiều kiếp tu hành cho tới khi nào triệt được mới xong. Khi chưa kích hoạt được hết thiện Tâm ở tất cả các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo thì sẽ phải thực hiện tiếp ở các kiếp tu hành tiếp theo cho tới khi hoàn thành. Điều này chứng minh rằng Đạo của Vũ trụ hợp nhất tại Tâm của con người thông qua bốn hình tướng Đạo. Chỉ có thông qua bốn hình tướng Đạo thì Tuệ linh mới trưởng thành và đắc được bộ lọc năng lượng. Bộ lọc năng lượng chính là đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.

8.4.    Tuệ linh và con người đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ

Trước tiên chúng ta hãy hình dung cơ thể con người để trưởng thành thì cần phải ăn uống có dinh dưỡng, cần phải vận động để tế bào phân tách và trưởng thành. Một người có được sự thành công trong cuộc sống thì họ cần phải học tập và vận động ứng dụng tri thức trong công việc. Như vậy để một người trưởng thành và thành công trong cuộc sống cần phải vận động. Đó là vận động để giải mã sự thật của vạn vật, vận động để mã hóa tri thức thành hạt năng lượng, vận động để cơ thể trưởng thành, vận động để mã hóa và chuyển hóa thành sự thành công.

Xét về sự trưởng thành của cơ thể con người, ban đầu cơ thể con người chỉ là phôi thai nhi được hợp nhất bởi trứng mang tính âm và tinh trùng mang tính dương, thông qua cơ chế phân tách và liên kết tế bào mà cơ thể phôi thai nhi có được sự trưởng thành. Quá trình trưởng thành của thai nhi gắn liền với quá trình tất cả các tế bào được phân tách từ phôi thai nhi đã được mã hóa thành những tế bào chức năng. Đó là nhóm cấu trúc tế bào được mã hóa thông tin để cấu tạo thành xương, các nhóm cấu trúc tế bào được mã hóa thành tế bào cấu tạo thành gan, thận, tim, phổi, da, mặt, đầu, chân, tay… Từ những nhóm tế bào chức năng đã được mã hóa, chúng phân tách liên kết chặt để cấu tạo cơ thể trở nên to lớn và khỏe mạnh.

Vậy làm thế nào để Tuệ linh có được sự trưởng thành cũng như đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ?

  • Tất cả các Tuệ linh đều phải tu hành ở nhân gian thông qua bốn hình tướng Đạo mới giúp Tuệ linh trưởng thành và đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Vì tại môi trường tu hành này, vị Tuệ linh đầu tiên đã tạo thành một môi trường đảm bảo có đầy đủ tất cả các nhóm vật chất tương tác với Tuệ linh an trụ trong thân tướng vật chất giản đơn là con người. Đặc biệt là có sự tương tác vô cùng lớn từ năng lượng hoại diệt tới môi trường tu hành này.
  • Đạo hợp nhất của Vũ trụ chính là sự hợp nhất tất cả các nhóm vật chất, không gian, thời gian của Vũ trụ tại hình tướng và Tâm của con người, vì Tâm của con người chính là dạng sống Tuệ linh.
  • Đạo của Vũ trụ hợp nhất tại Tâm của con người thông qua bốn hình tướng Đạo. Do đó, cơ sở để khẳng định Tuệ linh trưởng thành và đắc được bộ lọc năng lượng là phải triệt tiêu được tất cả các độc Tâm và kích hoạt được tất cả các thiện Tâm trong Trụ linh của Tuệ linh. Khi đó Tuệ linh thực hành đời sống phân tách ra vô số cho tới đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương siêu mạnh và lượng sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm siêu nhẹ để cấu tạo và chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi thực hiện đời sống thiện Tâm, tức là đời sống phân tách liên kết các hạt năng lượng dương, cấu trúc năng lượng của Tuệ linh sẽ trở nên lớn mạnh và trưởng thành, cũng là cơ sở để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Nếu thực hiện đời sống độc Tâm, tức là đời sống phân tách liên kết các hạt năng lượng âm từ mạnh cho tới siêu mạnh sẽ khiến cấu trúc Tuệ linh không được liên kết trưởng thành, khi đó năng lượng hoại diệt sẽ xâm nhập vào làm phân rã và hoại diệt Tuệ linh. Đặc biệt Tuệ linh tu hành trong thân tướng con người với sự trói buộc trong thân tướng, để kích hoạt được thiện Tâm thì đó là kết quả của việc thấu hiểu và triệt được độc Tâm. Do đó việc Trụ linh sản sinh ra hạt năng lượng dương sẽ đồng loạt sản sinh ra cả hạt năng lượng chân tâm cùng hạt năng lượng âm có sóng điện âm vô cùng nhẹ. Chính vì vậy, thực hành sản sinh năng lượng dương chính là để giúp Tuệ linh trưởng thành và đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.

Quá trình Tuệ linh trưởng thành và đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ diễn ra như thế nào thông qua bốn hình tướng Đạo?

  • Thông qua hình tướng Đạo lễ với tất cả các kịch bản tương tác trong mọi hoàn cảnh, khi con người thấu hiểu, kiểm soát, triệt bỏ được hết độc Tâm và thấu hiểu, kích hoạt được tất cả thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác của hình tướng Đạo lễ, Trụ linh trong Tuệ linh sẽ phân tách ra vô số hạt năng lượng dương có sóng điện dương siêu mạnh, vô số hạt năng lượng âm có sóng điện âm siêu nhẹ, vô số hạt năng lượng chân tâm. Tất cả những hạt năng lượng đó đã được giải mã và mã hóa thông tin toàn diện của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ vào sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng. Hệ thống hạt năng lượng sau khi được sản sinh ra trong hình tướng Đạo lễ sẽ liên kết với nhau để giúp Tuệ linh trưởng thành và có đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ cho việc cấu tạo chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Đặc biệt là hệ thống hạt năng lượng của hình tướng Đạo lễ sau khi được liên kết bền vững với nhau sẽ tạo thành hệ thống hạt năng lượng có chức năng và nhiệm vụ rõ ràng. Nó giúp cho Tuệ linh phát triển được tình yêu thương, quan tâm, giúp đỡ, tri ân cội nguồn, nghĩa tình với tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, điều mà nếu Tuệ linh chưa trưởng thành sẽ không có được.
  • Thông qua hình tướng Đạo đời với tất cả các kịch bản tương tác trong mọi hoàn cảnh, khi con người thấu hiểu, kiểm soát, triệt bỏ được hết độc Tâm và thấu hiểu, kích hoạt được tất cả thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác của hình tướng Đạo đời, Trụ linh trong Tuệ linh sẽ phân tách ra vô số hạt năng lượng dương có sóng điện dương siêu mạnh, vô số hạt năng lượng âm có sóng điện âm siêu nhẹ, vô số hạt năng lượng chân tâm. Tất cả những hạt năng lượng đó đã được giải mã và mã hóa thông tin toàn diện của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ vào sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng. Hệ thống hạt năng lượng sau khi được sản sinh ra trong hình tướng Đạo đời sẽ liên kết với nhau để giúp Tuệ linh trưởng thành và có đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ cho việc cấu tạo chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Đặc biệt là hệ thống hạt năng lượng của hình tướng Đạo đời sau khi được liên kết bền vững với nhau sẽ tạo thành hệ thống hạt năng lượng có chức năng và nhiệm vụ rõ ràng. Nó giúp cho Tuệ linh phát triển và thực hiện được đời sống cống hiến, bảo vệ, phát triển tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ trở nên bền vững, điều mà nếu Tuệ linh chưa trưởng thành sẽ không có được.
  • Thông qua hình tướng Đạo đường với tất cả các kịch bản tương tác trong mọi hoàn cảnh, khi con người thấu hiểu, kiểm soát, triệt bỏ được hết độc Tâm và thấu hiểu, kích hoạt được tất cả thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác của hình tướng Đạo đường, Trụ linh trong Tuệ linh sẽ phân tách ra vô số hạt năng lượng dương có sóng điện dương siêu mạnh, vô số hạt năng lượng âm có sóng điện âm siêu nhẹ, vô số hạt năng lượng chân tâm. Tất cả những hạt năng lượng đó đã được giải mã và mã hóa thông tin toàn diện của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ vào sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng. Hệ thống hạt năng lượng sau khi được sản sinh ra trong hình tướng Đạo đường sẽ liên kết với nhau để giúp Tuệ linh trưởng thành và có đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ cho việc cấu tạo chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Đặc biệt là hệ thống hạt năng lượng của hình tướng Đạo đường sau khi được liên kết bền vững với nhau sẽ tạo thành hệ thống hạt năng lượng có chức năng và nhiệm vụ rõ ràng. Nó giúp cho Tuệ linh phát triển và có được trí tuệ của vạn vật, điều mà nếu Tuệ linh chưa trưởng thành sẽ không có được.
  • Thông qua hình tướng Đạo Đế vương với tất cả các kịch bản tương tác trong mọi hoàn cảnh, khi con người thấu hiểu, kiểm soát, triệt bỏ được hết độc Tâm và thấu hiểu, kích hoạt được tất cả thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác của hình tướng Đạo Đế vương, Trụ linh trong Tuệ linh sẽ phân tách ra vô số hạt năng lượng dương có sóng điện dương siêu mạnh, vô số hạt năng lượng âm có sóng điện âm siêu nhẹ, vô số hạt năng lượng chân tâm. Tất cả những hạt năng lượng đó đã được giải mã và mã hóa thông tin toàn diện của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ vào sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng. Hệ thống hạt năng lượng sau khi được sản sinh ra trong hình tướng Đạo Đế vương sẽ liên kết với nhau để giúp Tuệ linh trưởng thành và có đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ cho việc cấu tạo chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Đặc biệt là hệ thống hạt năng lượng của hình tướng Đạo Đế vương sau khi được liên kết bền vững với nhau sẽ tạo thành hệ thống hạt năng lượng có chức năng và nhiệm vụ rõ ràng. Nó giúp cho Tuệ linh có được sự bình đẳng trong sự tôn nghiêm, sự tri ân, sự đoàn kết trên dưới và tất cả Tuệ linh để phát triển tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ trở nên bền vững, điều mà nếu Tuệ linh chưa trưởng thành sẽ không có được.

Như vậy sự trưởng thành của Tuệ linh thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian sẽ giúp cho Tuệ linh phát triển thành tình yêu thương tới tất cả vạn vật, có trí tuệ thấu hiểu về tất cả vạn vật, thực hành đời sống cống hiến vì tất cả vạn vật, bình đẳng trong sự tôn nghiêm. Khi liên kết các hệ thống sợi mã sóng trí tuệ đó lại với nhau sẽ chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi đó, bộ lọc năng lượng trong Trụ linh của Tuệ linh sẽ sản sinh ra các siêu hạt năng lượng để liên kết tới tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ cùng phát triển bền vững.

9. Bản chất Kết – Định – Tỏa của Đạo hợp nhất Vũ trụ

Bản chất Kết – Định – Tỏa của Đạo hợp nhất Vũ trụ chính là bản chất Tuệ linh (Tâm) bên trong thân tướng con người thực hành đời sống Kết – Định – Tỏa khi tương tác với tất cả các kịch bản của bốn hình hình tướng Đạo.

Con người thực hiện đời sống với bản chất Kết trong bốn hình tướng Đạo:

  • Kết là rung lắc, là thu hút, là thu tín hiệu, là hấp thụ nhiệt, là hút về, là lấy về, là chiếm lấy, là cướp lấy, là thỏa mãn, là giết hại. Kết có từ nhẹ cho tới mạnh, rất mạnh và siêu mạnh. Kết nhẹ chỉ là rung lắc nhẹ để thu hút và thu tín hiệu. Kết từ mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh là hấp thụ về, là lấy về, là thỏa mãn, là cướp lấy, là chiếm đoạt, là giết hại.
  • Con người thông qua tất cả các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo, thực hiện đời sống với bản chất Kết nhẹ: Đó là rung lắc nhẹ để thu hút nhẹ, thu tín hiệu về; đó là thực hành đời sống với bản chất tiếp thu, liên kết, tìm hiểu, giải mã sự thật của vạn vật. Con người thực hành đời sống với bản chất là Kết nhẹ sẽ giúp Trụ linh có khả năng kích hoạt được thiện Tâm và thông qua thiện Tâm để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm. Vì vậy, Kết nhẹ phải có sự vận hành với cơ chế Tỏa mới tạo thành sức mạnh chuyển hóa năng lượng. Nếu Kết nhẹ mà độc lập thì sẽ có nguy cơ bộc phát độc Tâm.
  • Con người thông qua tất cả các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo mà thực hành đời sống Kết từ mạnh cho tới siêu mạnh: đó là thực hành đời sống bám định vào giả tướng để rung lắc mạnh, hấp thụ mạnh, lấy về, chiếm đoạt, cướp về, thỏa mãn, giết hại; đó là thực hành đời sống vi phạm vào các quy tắc không được phép vi phạm trong bốn hình tướng Đạo. Kết mạnh cho tới siêu mạnh trong tất cả các kịch bản tương tác của bốn hình tướng Đạo chính là từ suy nghĩ cho tới hành động thỏa mãn lợi ích ích kỷ của bản thân mình mà gây tổn thương hoặc không màng tới lợi ích của con người, vạn vật, Tuệ linh.
  • Thực hành đời sống Kết mạnh cho tới siêu mạnh trong bốn hình tướng Đạo sẽ khiến cho Trụ linh của Tâm sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Khi năng lượng âm được sản sinh ra nhiều sẽ khiến cho năng lượng dương không được sản sinh. Do nhiều năng lượng âm nên không liên kết phát triển cấu trúc Tuệ linh trở nên bền vững, thay vào đó là làm cho Tuệ linh bị đa hạt năng lượng âm ở các điểm hạt năng lượng dương ít ỏi. Điều này khiến cho Tuệ linh nhanh chóng bị năng lượng hoại diệt xâm nhập đồng hóa và hoại diệt Tuệ linh.

Con người thực hiện đời sống với bản chất Định trong bốn hình tướng Đạo:

  • Định là cân bằng, là tĩnh lặng, là thanh lọc, là thấu hiểu. Định có từ mức nhẹ cho tới Định ở mức cao. Định ở mức nhẹ là không bộc phát độc Tâm cũng như không bộc phát thiện Tâm. Định ở mức cao là gắn liền với việc kích hoạt được tất cả thiện Tâm.
  • Định ở mức nhẹ trong tương tác với tất cả các kịch bản của bốn hình tướng Đạo là không vi phạm vào những quy tắc không được phép vi phạm và không làm được các quy tắc phải làm được trong bốn hình tướng Đạo. Đó là duy trì trạng thái không muốn phiền não trong bất cứ các kịch bản tương tác nào. Định ở mức nhẹ sẽ khiến cho cuộc đời trở nên lãng phí vì chưa thấu hiểu cũng như chưa thực hành chuyển sinh Trụ linh.
  • Định ở mức cao trong tương tác với tất cả các kịch bản của bốn hình tướng Đạo chính là gắn liền với bản chất Tỏa. Đó là thấu hiểu, cân bằng, thanh lọc ở các cảnh giới cao để thực hiện cơ chế chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Định ở mức cao là điều vô cùng cần thiết cho sự vận hành của bộ lọc năng lượng.

Con người thực hiện đời sống với bản chất Tỏa trong bốn hình tướng Đạo:

  • Tỏa là tỏa nhiệt dương, tỏa sóng điện dương, đẩy thông tin, truyền đi, cho đi, giúp đỡ, cứu giúp, cống hiến, hy sinh vì vạn vật, Tuệ linh và con người.
  • Con người thông qua tất cả các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo mà thực hiện đời sống với bản chất Tỏa: đó là thực hiện đời sống cống hiến, cứu giúp, mang lại lợi ích cho vạn vật, Tuệ linh, con người; đó là không vi phạm vào bộ quy tắc không được phép vi phạm vào bốn hình tướng Đạo và thực hiện được bộ quy tắc phải làm được trong bốn hình tướng Đạo. Con người thực hiện đời sống với bản chất Tỏa sẽ kích hoạt được tất cả thiện Tâm và kiểm soát cũng như triệt tiêu được độc Tâm.
  • Khi con người thực hiện đời sống với bản chất Tỏa thông qua tất cả các kịch bản trong bốn hình tướng Đạo sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương có sóng điện dương siêu mạnh, vô số hạt năng lượng chân tâm, vô số hạt năng lượng âm có sóng âm nhẹ. Sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm có sóng điện âm nhẹ, vì đó là kết quả của việc giải mã, thấu hiểu sự thật của tất cả vạn vật, đặc biệt là triệt tiêu được độc Tâm. Chính vì điều này đã tạo thành sự phát triển cấu trúc liên kết hạt năng lượng trong Tuệ linh theo hướng bền vững. Thực hiện đời sống Tỏa trong bốn hình tướng Đạo sẽ giúp con người nhanh chóng chuyển hóa được Trụ linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng. Đó là đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.

Khi con người thông qua bốn hình tướng Đạo hợp nhất ở nhân gian để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, từ Trụ linh của Tuệ linh sẽ tạo thành cơ chế liên kết hợp nhất với toàn bộ 5 nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ để vận động, duy trì, phát triển Vũ trụ trở nên bền vững. Đó là Đạo hợp nhất của Vũ trụ mà mỗi Tuệ linh cần phải đắc được. Do đó, phải thông qua tu hành bốn hình tướng Đạo ở nhân gian để đạt được điều đó.

III. Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển sinh của Đạo hợp nhất Vũ trụ

Chân lý Vạn vật trong Đạo hợp nhất của Vũ trụ sẽ là: Đạo không tự sinh ra, Đạo không tự mất đi, khổ đau của Tâm Đạo không tự đến và không tự đi, tất cả do duyên nghiệp hay còn gọi là nhân quả. Cơ chế chuyển sinh của Đạo hợp nhất Vũ trụ chính là cơ chế “Phân tách và liên kết dây”.

Chân lý Vạn vật chính là Quy luật Nhân quả, chính là chữ Vô. Vô là tướng không. Tướng không là không bất tử, không vĩnh cửu, không trường tồn. Nó chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định rồi lại chuyển hóa sang tướng

khác do duyên. Do đó, Chân lý Vạn vật, Quy luật Nhân quả được đúc kết thành chữ Duyên. Duyên chính là tướng không. Thấu hiểu chữ Duyên thì ta sẽ thấu hiểu được quá khứ, hiện tại và tương lai.

Vận hành Chân lý Vạn vật của Đạo Vũ trụ hợp nhất chính là cơ chế phân tách và liên kết dây. Cơ chế phân tách và liên kết sẽ được xảy ra trong môi trường có điều kiện. Đó là môi trường có tương tác giữa các chỉnh thể, trong một quy trình thời gian nhất định, môi trường có sóng điện âm hoặc dương hoặc trung tính, có nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt được kích nổ hoặc chưa kích nổ. Dạng sống Tuệ linh và tất cả các nhóm vật chất từ giản đơn cho tới phức tạp và siêu vật chất để xảy ra phân tách và liên kết thì đều phải tồn tại trong môi trường có điều kiện.

Khi chúng ta thấu hiểu hai Chân lý và các cơ chế vận hành của hai Chân lý, chúng ta sẽ thấu hiểu và giải mã được các con đường chuyển sinh của Đạo Vũ trụ hợp nhất.

Vì Đạo hợp nhất của Vũ trụ hợp nhất tại Tuệ linh, Tuệ linh lại chính là Tâm của con người, nên để thấu hiểu được các con đường chuyển sinh của Đạo Vũ trụ hợp nhất, chúng ta phải thấu hiểu được các con đường chuyển sinh của Tuệ linh (Tâm) thông qua thân tướng con người, từ đó sẽ chọn lựa được con đường chuyển sinh bền vững duy nhất thông qua Chân lý Giác ngộ.

Tuệ linh thông qua thân tướng con người đối với các con đường chuyển sinh:

1. Tuệ linh thông qua thân tướng con người thực hiện đời sống Kết đối với con đường chuyển sinh

Kết mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh là rung lắc mạnh, thu hút mạnh, hấp thụ về, chiếm lấy, cướp lấy, thỏa mãn, gây tổn thương, giết hại.

Khi các Tuệ linh thông qua thân tướng con người thực hiện đời sống phân tách liên kết trong bản chất là Kết mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh, các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm sẽ được phân tách ra vô số và lưu giữ ở Trụ linh. Chúng sẽ phân tách thành các hạt năng lượng tận cùng và liên kết lại tạo thành những hạt năng lượng âm tổng hợp rồi phân tách ra cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng. Vì chỉ thực hiện đời sống là Kết nên Trụ linh không phân tách các hạt năng lượng dương ra để tạo thành cấu trúc liên kết chặt chẽ và mở rộng. Tức là sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương không được sinh ra để làm nhiệm vụ tạo thành hạt năng lượng dương tận cùng rồi liên kết tạo thành hạt năng lượng tổng hợp mở rộng bên ngoài Trụ linh. Trong khi đó các hạt năng lượng âm được sinh ra nhiều mà không có hạt năng lượng dương để cân bằng tỷ lệ 1:1. Khi đó, các hạt năng lượng âm sẽ tập trung số đông tại các hạt năng lượng dương ít ỏi. Các hạt năng lượng âm lại có bản chất là thu hút tín hiệu bởi rung lắc nên khiến cho năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu đó mà di chuyển tới với số lượng lớn. Khi năng lượng hoại diệt di chuyển tới với số lượng lớn sẽ khiến cho cấu trúc Trụ linh và Tuệ linh bắt đầu bị đồng hóa, bị phân rã. Kết cục là Tuệ linh sẽ hoại diệt vĩnh viễn.

Như vậy, các Tuệ linh thông qua thân tướng con người mà thực hiện cơ chế phân tách, liên kết với bản chất Kết mạnh cho tới siêu mạnh chính là chọn lựa và đang đi trên con đường chuyển sinh phân rã để hoại diệt vĩnh viễn.

Nguyên nhân hoại diệt của Tuệ linh thực hành đời sống Kết mạnh cho tới siêu mạnh là do mất cân bằng trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh. Khi đó, lượng hạt năng lượng âm quá nhiều, năng lượng hoại diệt tấn công vào gây phân rã. Khi năng lượng hoại diệt tấn công vào, Trụ linh và Tuệ linh không có đủ số lượng và sức mạnh của hạt năng lượng dương để phòng thủ, kích nổ năng lượng hoại diệt, sẽ bị chuyển hóa thành năng lượng hoại diệt.

Khổ đau của Vũ trụ và Tuệ linh chính là sự phân rã và hoại diệt. Do đó, nguyên nhân của khổ đau là do vạn vật và Tuệ linh thực hiện cơ chế phân tách liên kết để thỏa mãn đời sống là Kết. Khi Kết sẽ bị năng lượng hoại diệt tấn công gây đứt liên kết mà hoại diệt.

Như vậy, năng lượng hoại diệt lại chi phối và thúc đẩy cấu trúc Trụ linh và Tuệ linh thực hiện đời sống Kết để nhanh bị hoại diệt hơn.

2. Tuệ linh thông qua thân tướng con người thực hiện đời sống Định đối với con đường chuyển sinh

Định là thực hiện đời sống không Kết cũng không Tỏa.

Định là duy trì sự an toàn, bảo vệ sự an lạc của Tướng đó.

Tuệ linh thông qua thân tướng con người thực hiện đời sống với bản chất Định, tức là phân tách liên kết các sợi mã sóng trí tuệ rất chậm và luôn trong bản chất cân bằng.

Khi đó, các hạt năng lượng âm và các hạt năng lượng dương có sóng điện rất nhẹ. Các hạt năng lượng sóng điện âm nhẹ không kích thích thu hút năng lượng hoại diệt, các hạt năng lượng sóng điện dương nhẹ không có khả năng kích nổ năng lượng hoại diệt nếu năng lượng hoại diệt tấn công.

Vì bản chất Tuệ linh thực hành đời sống Định nên tự an lạc, thanh tịnh mà không bị năng lượng hoại diệt tấn công. Tuy nhiên nếu Tuệ linh di chuyển vào nơi có năng lượng hoại diệt thì cũng không chống lại được sự hoại diệt. Nếu duy trì Định mãi thì nguy cơ hoại diệt là cao.

Nếu Tuệ linh thông qua thân tướng con người thực hiện đời sống Định mà chuyển sinh thành thực hiện đời sống Tỏa thì có khả năng kích nổ được năng lượng hoại diệt. Khi đó, sẽ thực hiện được cơ chế phân tách, liên kết mạnh mẽ và liên kết được với hết thảy các cấu trúc vật chất của Vũ trụ.

3. Tuệ linh thông qua thân tướng con người thực hiện đời sống Tỏa đối với con đường chuyển sinh

Tỏa là cho đi, vì vạn vật, Tuệ linh, con người mà không màng về mình.

Khi các Tuệ linh thông qua thân tướng con người thực hiện đời sống với bản chất là Tỏa, từ Trụ linh sẽ phân tách ra vô số các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương. Trước khi phân tách ra được các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương thì cũng là quá trình phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm ở mức nhẹ. Các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương được phân tách ra nhiều sẽ giúp cho các hạt năng lượng dương tận cùng được hình thành và tạo thành cấu trúc năng lượng 16 hạt mở rộng bên ngoài Trụ linh được mở rộng và lớn mạnh. Việc mở rộng liên kết của các hạt năng lượng dương là có sợi dây liên kết mang sóng điện trung tính với tính chất là bền chặt. Cấu trúc năng lượng 16 hạt mở rộng bên ngoài Trụ linh sẽ luôn có tỷ lệ vàng là một hạt âm có sóng điện nhẹ rung lắc xung quanh một hạt năng lượng dương. Ngoài ra, do thực hiện đời sống Tỏa, các hạt năng lượng dương đã phân tách và lan tỏa khắp Vũ trụ, tạo thành cơ chế liên kết 3 vùng: Từ Trụ linh tới đối tượng đón nhận và trong Vũ trụ. Khi thực hiện đời sống Tỏa, cấu trúc Trụ linh và Tuệ linh sẽ có khả năng kích nổ năng lượng hoại diệt để tạo thành nhiệt lượng cho quá trình phân tách, liên kết các hạt năng lượng dương và siêu hạt năng lượng được mạnh mẽ và phát triển bền vững hơn. Các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm nhẹ nên nó không kích thích nhiều năng lượng hoại diệt di chuyển vào. Nó chỉ rung động vừa đủ để năng lượng hoại diệt di chuyển ít cho tới vừa đủ.

Việc các Tuệ linh thực hiện đời sống Tỏa không những là hướng chuyển sinh bền vững cho Tuệ linh. Nó còn giúp cho Tuệ linh liên kết chặt chẽ đến với hết thảy các Tướng của Vũ trụ theo cơ chế liên kết 3 vùng trong Quy luật Nhân quả.

Trong 3 đời sống của Tuệ linh thông qua thân tướng con người ở trên, Tuệ linh thực hiện đời sống Tỏa là có con đường chuyển sinh theo hướng bền vững nhất. Tuệ linh thực hiện đời sống Kết là chuyển sinh theo hướng hoại diệt. Tuệ linh thực hiện đời sống Định là sự cân bằng phải có cho tất cả các Tuệ linh. Tuy nhiên, nếu Tuệ linh thông qua thân tướng con người mà thực hiện đời sống riêng biệt theo 1 trong 3 đời sống trên trên thì sẽ khó khăn để đạt đến sự chuyển sinh bền vững nhất. Bởi, để Tuệ linh thực hiện đời sống Tỏa được phải có đời sống Kết vừa đủ và nhẹ. Tuệ linh thực hiện đời sống Kết nhẹ để không hoại diệt phải biết thực hiện đời sống Tỏa. Tuệ linh thực hiện đời sống Định để phát triển và tồn tại thì cần phải thực hiện đời sống Kết nhẹ trước, sau đó thực hiện đời sống Tỏa mạnh cho tới siêu mạnh.

Như vậy, Chân lý Vạn vật và cơ chế phân tách, liên kết cho chúng ta thấu hiểu và thực hành đời sống hài hòa cả Kết – Định – Tỏa mới đạt đến đích của chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất. Kết mà không phải là Kết mới tạo thành sức mạnh cực đại cho quá trình chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất.

 IV.   Chân lý Giác ngộ đối với con đường chuyển sinh bền vững duy nhất của Đạo hợp nhất Vũ trụ

Chân lý Giác ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ là: Đạo hợp nhất của Vũ trụ là khổ. Tất cả Tuệ linh và con người phải dùng Trụ linh thực hành Định (chân tâm) để đối mặt, thấu hiểu Kết – Định – Tỏa của hết thảy Tướng trong và ngoài Vũ trụ, từ đó chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng Kết – Định – Tỏa.

Trong bản chất và Chân lý Vạn vật của Đạo hợp nhất Vũ trụ đã cho hết thảy Tuệ linh, con người thấy rằng: Vũ trụ và Tuệ linh bị biến đổi mã sóng trí tuệ dẫn tới phân rã hoại diệt. Biến đổi là để đấu tranh cho quá trình tồn tại bền vững. Phân rã hoại diệt là do năng lượng hoại diệt tấn công đồng hóa mà bị phân rã, hoại diệt.

Do đó, Chân lý Giác ngộ cho hết thảy Tuệ linh và con người thấy rằng: Vũ trụ và Tuệ linh là khổ. Chỉ có con đường chuyển sinh bền vững duy nhất là phải thấu hiểu hết thảy Kết– Định – Tỏa của hết thảy Tướng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh, từ đó thực hành chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Để Tuệ linh thấu hiểu Đạo hợp nhất của Vũ trụ, thấu hiểu Chân lý Vạn vật của Đạo hợp nhất Vũ trụ, thấu hiểu con đường giác ngộ chuyển hóa Trụ linh, Tuệ linh phải luân hồi xuống nhân gian để trải nghiệm nhiều kiếp tu hành trong thân tướng con người. Khi xuống nhân gian phải sống trong bốn hình tướng Đạo là Đạo đời, Đạo lễ, Đạo đường, Đạo Đế vương. Bởi chỉ khi sống trong bốn hình tướng Đạo mới có độ nén tột cùng bởi thân tướng vật chất và sự tương tác của tất cả các nhóm vật chất và năng lượng hoại diệt trong tất cả các kịch bản tương tác. Đó là quá trình để giúp Tuệ linh bộc phát hết độc Tâm, tiếp đến là triệt tiêu độc Tâm và kích hoạt được tất cả các thiện Tâm. Khi triệt tiêu hết độc Tâm và kích hoạt được tất cả thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác sẽ giúp cho Trụ linh đủ lượng sợi trí tuệ để chuyển hóa và cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Sống trong bốn hình tướng Đạo và thực hành con đường Tâm Đạo chính là sống đời sống tôn nghiêm tới cội nguồn Vũ trụ trong sự bình đẳng tu hành cải tạo Trụ linh theo cơ chế vận hành của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ.

Cơ chế vận hành của Chân lý Giác ngộ là phân tách và liên kết dây. Cơ chế phân tách, liên kết dây cho thấy có hai con đường phân tách và liên kết. Đó là:

  • Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng lượng âm, đó là Kết. Nếu đi theo con đường này, hết thảy Tuệ linh và Vũ trụ sẽ phân rã và hoại diệt. Đây là con đường chuyển sinh phân rã và hoại diệt.
  • Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng lượng dương, đó là Tỏa. Nếu đi theo con đường này, hết thảy Tuệ linh và Vũ trụ sẽ phân tách, liên kết vô lượng hạt năng lượng dương có liên kết chặt chẽ bởi sợi chân tâm, sẽ là con đường chuyển sinh bền vững nhất.

Từ bản chất của Đạo hợp nhất Vũ trụ, từ Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên kết dây, hết thảy Tuệ linh và con người đều thấy rằng: Con đường duy nhất để vượt qua khổ đau (hoại diệt cấu trúc năng lượng) để trở nên bền vững, an lạc là đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh chính là con đường Tỏa. Tỏa là con đường mà hết thảy Tuệ linh, con người phải thực hiện nếu muốn diệt khổ để chuyển sinh thành bộ lọc năng lượng.

Thực hiện con đường Tỏa để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng không phải là Tỏa một cách tiêu cực. Vậy Tỏa làm sao để an lạc, để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng? Đó là:

  • Trụ linh phải tập trung sóng điện ở vị trí Định. Định là chân tâm, là tĩnh lặng, là cân bằng, là an lạc. Vị trí Định sẽ được nâng cao từ Định ban đầu cho tới các cảnh giới tối cao của Định. Đó là Chân tâm sáng chói lòa vô lượng. Khi Trụ linh đứng ở vị trí Định sẽ thấu hiểu, biết lắng nghe, biết nhìn – soi lại bản thể Trụ linh mình, biết tiếp nhận, biết cảm thông, biết sẻ chia.
  • Tiếp theo Trụ linh phải dùng sóng điện âm để Kết. Kết ở đây không phải là có tư tưởng cho tới hành động tiêu cực gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh, con người. Kết ở đây chỉ là rung động khi đứng ở vị trí Định. Tức là Trụ linh đứng ở vị trí Định để lắng nghe, đón nhận những khổ đau kiếp nạn, hạnh phúc an vui, những sẻ chia của vạn vật, chúng sinh, Tuệ linh, con người. Bởi khi các Tướng khổ đau chia sẻ tới Trụ linh của ta, những chia sẻ bởi khổ đau, khổ đau bởi u mê nên trong Trụ linh họ sẽ phân tách ra các hạt năng lượng tiêu cực sóng điện âm nhẹ màu xám, cho tới mạnh là màu đen và đỏ máu. Do cơ chế phân tách theo Quy luật Nhân quả sẽ phân tách ra làm 3 vùng, đó là trong Trụ linh họ 1 hạt, phân tách vào Vũ trụ 1 hạt, người nghe đón nhận 1 hạt. Do Trụ linh của ta đứng ở vị trí Định để dùng Kết là rung động, để lắng nghe, để hút về, để đón nhận, khi đó, hạt năng lượng âm màu xám, màu đen, màu đỏ máu của họ được Trụ linh của ta hấp thụ. Do Trụ linh ta đứng ở vị trí Định nên Trụ linh đang tỏa sóng điện chân tâm trắng sáng. Trắng sáng của chân tâm sẽ chuyển hóa hạt năng lượng âm màu xám, màu đen, màu đỏ máu của cấu trúc Trụ linh đang sẻ chia thành màu trắng xám nhẹ. Như vậy, Trụ linh của ta đã Kết được hạt năng lượng sóng điện âm của hết thảy các Tướng về và dùng năng lượng chân tâm trắng sáng chói lòa chuyển hóa nó thành hạt năng lượng âm sóng điện rất nhẹ. Như thế sẽ không kích động mạnh tới năng lượng hoại diệt, năng lượng hoại diệt sẽ không di chuyển nhiều vào Trụ linh của ta. Đồng thời, Trụ linh cũng hấp thụ được những năng lượng dương, chân tâm từ môi trường tương tác về để tạo thành nhiệt dương cho Trụ linh kích nổ năng lượng hoại diệt. Đây chính là Kết mà không phải là Kết. Đây là nghệ thuật chuyển hóa hạt năng lượng của hết thảy cấu trúc Trụ linh đau khổ cũng như an vui hạnh phúc trong toàn bộ Vũ trụ.
  • Tiếp đến Trụ linh của ta lại Định. Định ở đây là sau khi đã đón nhận những sẻ chia, tức là Kết được năng lượng tiêu cực, tích cực về Trụ linh, Trụ linh của ta tiếp tục Định để cân bằng ở cảnh giới chân tâm cao hơn. Đó là giải mã tận cùng khổ đau kiếp nạn, hạnh phúc an vui của hết thảy các Tướng, trong khi Trụ linh và Trí tuệ của ta vẫn Định. Bởi chỉ khi Định thì Trụ linh của ta mới chuyển hóa thành Tỏa ra vô lượng hạt năng lượng có sóng điện dương.
  • Cuối cùng là Tỏa. Khi đã trải qua quá trình Định rồi Kết, lại Định rồi đến cuối cùng là Tỏa. Tỏa ở đây chính là Trụ linh của ta sẻ chia con đường diệt khổ, về cội nguồn, về kế hoạch tu hành, về sứ mệnh, về trách nhiệm, về cơ chế và phương pháp chuyển sinh bền vững an lạc, về khuôn mẫu đạo đức và con đường giác ngộ trong bốn hình tướng Đạo. Đó là chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi Trụ linh ta làm đúng quy trình như vậy, từ Trụ linh của ta sẽ Tỏa ra vô số các siêu hạt năng lượng vào 3 vùng. Đó là trong Trụ linh của ta sẽ lưu giữ, trong Vũ trụ cũng lưu giữ và trong đối tượng Tướng được nghe ta sẻ chia cũng lưu giữ. Khi ta Tỏa sẽ tạo thành liên kết 3 vùng rất bền chặt. Không những vậy, Trụ linh và cấu trúc Tướng của ta sẽ trở nên phát triển bền vững.

Khi cấu trúc Trụ linh của ta thực hiện quy trình Kết – Định – Tỏa thành bản năng sau khi đã triệt tiêu được hết độc Tâm và kích hoạt được hết thiện Tâm, thực hành trong thời gian dài và tới được nhiều cho tới vô số Tuệ linh, con người, Trụ linh của ta sẽ chuyển hóa thành bộ lọc.

Nếu Trụ linh lựa chọn con đường chỉ Kết thì sẽ hoại diệt. Nếu Trụ linh lựa chọn con đường chỉ Định thì nguy cơ hoại diệt cao. Nếu Trụ linh chỉ lựa chọn con đường Tỏa thì tuy không có nguy cơ hoại diệt cao nhưng cơ hội và tốc độ để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng là mất nhiều thời gian, không biết khi nào sẽ đạt được. Nhưng, khi thực hiện kết hợp theo quy trình đứng ở vị trí Định để thực hành Kết – Định – Tỏa sẽ là quy trình siêu tốc độ để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi có được bộ lọc năng lượng thì Tuệ linh (Tâm) đã chấm dứt vĩnh viễn khổ đau.

Như vậy, để chuyển sinh Trụ linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng, Tuệ linh phải sống trong môi trường tương tác khắc nghiệt bởi đau khổ của bốn hình tướng Đạo để bộc phát hết độc và thiện trong Trụ linh, từ đó thấu hiểu Đạo Vũ trụ và chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Tiếp đến, Tuệ linh thông qua thân tướng con người phải đứng ở vị trí Định để thực hành Kết – Định – Tỏa trong bốn hình tướng Đạo ở nhân gian. Đây là con đường duy nhất, là bài thuốc duy nhất để giúp Tuệ linh chuyển hóa Trụ linh của chính Tuệ linh không bị phân rã hoại diệt do năng lượng hoại diệt tác động. Ngược lại, Tuệ linh sẽ nhanh chóng chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất. Khi Tuệ linh chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn cũng là sản sinh ra các siêu hạt năng lượng để bảo vệ, phát triển vạn vật trong và ngoài Vũ trụ trở nên bền vững.

Đạo Vô Đạo chính là thông qua Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên kết dây để thấu hiểu sự thật của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là Tuệ linh. Từ đó, xây dựng thành Đạo của Vũ trụ hợp nhất, thống nhất vĩ đại giúp cho hết thảy Tuệ linh, con người trong Vũ trụ thực hành chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng để bảo vệ, phát triển Vũ trụ bền vững.

***************

Rate this post

Bài viết liên quan