Bài 16: Bài Trụ – Trí

Bài Trụ – Trí được hiểu là Trí Vô Trí. Trí Vô Trí được kết cấu thành 3 phần. Chữ Trí đầu tiên là khái niệm và bản chất của các cấu trúc Trí tuệ. Chữ Vô là Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển sinh của các cấu trúc Trí tuệ. Chữ Trí cuối cùng là Chân lý Giác ngộ với con đường chuyển sinh bền vững duy nhất cho các cấu trúc Trí tuệ.

Trong bài Trụ – Trí này, trí tuệ của tất cả các Tướng trong và ngoài Vũ trụ sẽ được phân tích, soi sáng, phơi bày sự thật bằng hai Chân lý. Đặc biệt, con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh. Do đó, ngoài việc phân tích, soi sáng, phơi bày sự thật về trí tuệ của Tuệ linh và con người, hai Chân lý sẽ giúp cho con người và Tuệ linh có được trí tuệ giác ngộ và phương pháp tuyệt vời nhất để chuyển sinh Trụ linh của mình thành bộ lọc năng lượng viên mãn.

Trụ linh gồm có Trụ – Trí và Trụ – Tâm.

I.   Khái niệm về Trụ – Trí (Trí tuệ)

Trụ Trí là trí tuệ. Trụ Trí là sợi mã sóng trí tuệ được phân tách và liên kết trong hạt năng lượng tận cùng và Trụ linh. Trụ Trí được hình thành, nâng cấp thông qua quá trình tương tác với Vũ trụ quan của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người.

Trụ – Trí có trong Tướng của tất cả các nhóm vật chất bao trùm trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Nó được tính tới đơn vị nhỏ nhất là 1 sợi mã sóng trí tuệ của 1 hạt năng lượng tận cùng.

Vũ trụ quan xung quanh của Tướng chính là môi trường sống và các Tướng xung quanh Tướng đang đề cập. Vũ trụ quan xung quanh các Tướng bao gồm từ chính Tướng đó cho tới môi trường sống và tất cả các Tướng bao trùm trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Cụ thể như sau:

  • Vũ trụ quan xung quanh của chính cấu trúc Tướng là những yếu tố cấu tạo thành Tướng đó. Đối với một hạt năng lượng tận cùng thì đó là sợi mã sóng trí tuệ trong hạt, đó là trạng thái năng lượng trong hạt, đó là sự vận động của chính hạt năng lượng tận cùng đó. Đối với một con người thì đó là năng lượng trong thân tướng, là sự vận động của thân tướng, là Tuệ linh an trụ bên trong thân tướng. Đối với một Tuệ linh thì đó chính là sóng điện tuần hoàn trong Tuệ linh, là Trụ linh gồm có Trụ – Trí và Trụ – Tâm, là sự vận động của Tuệ linh đó. Các Tướng khác cũng như vậy để xác định Vũ trụ quan xung quanh chính Tướng đó.
  • Vũ trụ quan xung quanh liên quan tới môi trường sống và sự tương tác của các Tướng đối với Tướng cần xác định. Vũ trụ quan xung quanh của một học sinh là sách vở, trường lớp, thầy cô, bài tập, kỳ thi, tri thức. Vũ trụ quan xung quanh một người nông dân là thời tiết khí hậu, là sâu bệnh, là cây giống, là đất nước, là thuốc sâu, là vụ mùa, là thu hoạch, là tiêu thụ, là giống cây. Vũ trụ quan xung quanh một người kỹ sư là bản vẽ, là công trình, là kỹ thuật, là số liệu tính toán, là thi công. Vũ trụ quan xung quanh một bác sĩ là bệnh nhân, bệnh viện, thiết bị điều trị, thuốc, vi khuẩn, vi rút, các loại bệnh, người khỏi bệnh, người không khỏi bệnh. Vũ trụ quan xung quanh một bệnh nhân là ốm đau, thuốc thang, bệnh tật, bệnh viện, sự sống và cái chết. Vũ trụ quan xung quanh một em bé mới sinh là sữa, là ba mẹ, là ông bà. Vũ trụ quan xung quanh một người thầy giáo là giảng đường, là giáo án, là học sinh, là nhà trường, là thi cử. Vũ trụ quan xung quanh một người mới chết là hoại diệt thân xác, là linh hồn/ Tuệ linh đi về đâu, là đau khổ của người sống và người chết. Vũ trụ quan xung quanh muông thú là bầy đàn, là săn mồi, là trốn chạy, là bảo vệ, là cái chết, là sự sống. Vạn vật trong và ngoài Vũ trụ cũng như vậy.
  • Vũ trụ quan xung quanh Tuệ linh và con người được bao trùm trong và ngoài Vũ trụ là: năng lượng hoại diệt làm Tuệ linh hoại diệt, con người là hóa thân của Tuệ linh, là tu hành trong khổ đau, là truy tìm phương thuốc chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, là nhóm vật chất giản đơn, là các khối thiên hà, là năng lượng vận hành Vũ trụ, là cấu trúc nền, là các Tuệ linh với nhau, là môi trường sóng điện âm hay dương hay trung tính, là Vũ trụ quay tròn, là quá trình phân rã hay hoại diệt của các Tuệ linh, là sau khi chết sẽ như thế nào, là siêu hạt năng lượng, là tiền kiếp quá khứ, là nghiệp báo,…

Quá trình tương tác giữa Tướng với các Tướng của Vũ trụ quan xung quanh từ chính bản thể Tướng cho tới toàn bộ các Tướng trong và ngoài Vũ trụ chính là quá trình hình thành trí tuệ. Trí tuệ được hình thành là do cơ chế phân tách, liên kết trong môi trường sóng điện đảm bảo mà tạo ra sợi mã sóng trí tuệ.

II.  Bản chất của Trụ – Trí (Trí tuệ)

Phân tích về bản chất của Trụ – Trí chính là phân tích về bản chất trí tuệ của tất cả vật chất bao trùm trong và ngoài Vũ trụ. Đặc biệt là phân tích về trí tuệ của dạng sống Tuệ linh và con người.

Bản chất của Trụ – Trí (Trí tuệ) gồm có: cấu trúc trí tuệ của các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ; cấu trúc trí tuệ của Tuệ linh và con người; trí tuệ là sự mã hóa thông tin; cơ chế hình thành trí tuệ; bản chất trí tuệ của dạng sống Tuệ linh; bản chất trí tuệ của con người; bản chất trí tuệ Kết – Định – Tỏa của 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ.

1. Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) của các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ

Trụ là gì? – Trụ là gốc. Gốc bao gồm: hạt năng lượng tận cùng là gốc, phôi năng lượng âm dương được liên kết bởi hai hạt năng lượng tận cùng là Trụ linh gốc (phôi âm dương gốc), Trụ linh gốc là gốc của tất cả các Tướng.

Trí là gì? – Trí là trí tuệ, trí tuệ là sợi mã sóng trí tuệ được lưu giữ trong hạt năng lượng.

Trụ – Trí là gì?:

  • Trụ – Trí của hạt năng lượng tận cùng chính là sợi mã sóng trí tuệ được lưu giữ trong hạt đó.
  • Trụ – Trí của phôi năng lượng âm dương gốc (Trụ linh gốc) chính là hai sợi mã sóng trí tuệ ban đầu của hai hạt năng lượng âm dương đó.
  • Trụ – Trí của các cấu trúc lớn hơn phôi âm dương gốc là tổng các sợi mã sóng trí tuệ được lưu giữ trong hai hạt năng lượng âm dương gốc (Trụ linh gốc). Cụ thể như sau: phôi năng lượng âm dương với hai hạt năng lượng ban đầu thông qua cơ chế phân tách liên kết ra nhiều cho tới vô số hạt năng lượng để nâng cấp thành các cấu trúc Trụ linh trưởng thành, Tuệ linh, con người, các cấu trúc Tướng lớn hơn. Khi đó, các sợi mã sóng trí tuệ đều được lưu giữ tại phôi năng lượng âm dương gốc (Trụ linh gốc). Do đó, tổng các sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc được gọi là Trụ – Trí.

Cấu trúc Trụ – Trí của năm nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ:

1.1.  Nhóm vật chất cội nguồn

Nhóm vật chất cội nguồn là nhóm hạt sóng xanh nõn chuối. Hạt sóng xanh là chỉ có một yếu tố cấu tạo thành hạt sóng xanh.

Hạt sóng xanh là nguồn gốc, là cấu trúc chưa được chuyển sinh, mã hóa thành sợi mã sóng trí tuệ. Tuy nhiên, hạt sóng xanh lại chứa đựng nhiệt lượng lớn vô cùng để chuyển sinh, mã hóa, nâng cấp thành mã sóng trí tuệ của từ hạt năng lượng tận cùng cho tới toàn bộ vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

Có thể nói, cấu trúc Trí tuệ của hạt sóng xanh chưa được mã hóa thông tin và chưa được hình thành.

1.2.  Nhóm vật chất hoại diệt

Nhóm vật chất hoại diệt là nhóm năng lượng hoại diệt.

Nhóm năng lượng hoại diệt là nhóm vật chất có trí tuệ sơ khai được nâng cấp, chuyển sinh từ nhóm hạt sóng xanh.

Hạt năng lượng hoại diệt được cấu tạo thành bởi 3 yếu tố: sợi mã sóng trí tuệ màu xanh nõn chuối, trạng thái năng lượng màu nâu bị thối hóa, hình tướng hạt năng lượng hoại diệt là hình elip.

Trụ – Trí của hạt năng lượng hoại diệt chính là sợi mã sóng trí tuệ màu xanh nõn chuối trong hạt năng lượng hoại diệt.

Hạt sóng xanh di chuyển, biến đổi, mã hóa thông tin xung quanh và biến đổi thành sợi mã sóng trí tuệ. Khi sợi mã sóng trí tuệ biến đổi xong đã cấu tạo hoàn thành hạt năng lượng hoại diệt. Vì di chuyển trong môi trường trung tính nên nhiệt lượng của hạt sóng chưa được giải phóng hết cũng như chưa được mã hóa hoàn chỉnh thông tin của quá trình tương tác khi di chuyển.

Có thể nói, cấu trúc Trí tuệ của hạt năng lượng hoại diệt chưa được mã hóa thông tin hoàn chỉnh và trong nó còn nhiệt lượng lớn chưa được sinh phát để trở thành trí tuệ hoàn chỉnh. Vì chưa hoàn chỉnh trí tuệ nên nó không thể nâng cấp thành các cấu trúc vật chất cao hơn.

1.3.  Nhóm siêu vật chất

Nhóm siêu vật chất gồm có năm nhóm hạt năng lượng siêu phức tạp, Tuệ linh, các siêu hạt năng lượng.

Hạt năng lượng tận cùng trong năm nhóm hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp được hình thành trong tinh cầu năng lượng của vụ nổ lớn. Hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp được cấu tạo bởi 3 yếu tố tạo thành: sợi mã sóng trí tuệ, trạng thái năng lượng, hình tướng hạt là hình elip. Trụ – Trí của hạt năng lượng tận cùng này là trí tuệ siêu phức tạp được mã hóa thông tin, chuyển sinh thành một cách siêu việt nhất Vũ trụ, từ đó mà chuyển sinh nâng cấp và trở thành cấu trúc Tuệ linh.

Siêu hạt năng lượng tận cùng được hình thành từ bộ lọc năng lượng của Tuệ linh đã chuyển sinh được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Siêu hạt năng lượng được hình thành bởi 3 yếu tố cấu tạo thành: siêu sợi mã sóng trí tuệ, siêu trạng thái năng lượng, hình tướng hạt là hình elip. Trụ – Trí của siêu hạt năng lượng tận cùng là sợi mã sóng trí tuệ đã mã hóa được thông tin siêu việt hơn so với hạt năng lượng cấu tạo thành Tuệ linh. Như vậy siêu hạt năng lượng có trí tuệ siêu việt hơn năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp.

Trụ – Trí của nhóm siêu vật chất có trí tuệ được nâng cấp cao nhất, là tinh hoa trí tuệ nhất của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

1.4.  Nhóm vật chất phức tạp

Nhóm vật chất phức tạp gồm có năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ phức tạp và cấu trúc linh hồn an trụ trong cỏ cây, đất đá, muông thú.

Hạt năng lượng tận cùng trong năm nhóm hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ phức tạp được hình thành trong tinh cầu năng lượng của vụ nổ lớn. Hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ phức tạp được cấu tạo bởi 3 yếu tố tạo thành: sợi mã sóng trí tuệ, trạng thái năng lượng, hình tướng hạt là hình elip. Trụ – Trí của hạt năng lượng tận cùng này là trí tuệ phức tạp được mã hóa thông tin, chuyển sinh thành để vận hành các thiên hà của Vũ trụ, từ đó mà chuyển sinh nâng cấp và trở thành cấu trúc Linh hồn.

Cấu trúc Linh hồn an trụ trong thân cây, trong đất đá, trong muông thú là cấu trúc năng lượng được liên kết giữa vô số hạt năng lượng dương, hạt năng lượng âm, hạt năng lượng trung tính. Linh hồn được cấu tạo bởi 3 yếu tố là Trụ – Trí (tổng mã sóng trí tuệ trong Trụ linh), Trụ – Tâm (trạng thái, sóng điện trong Trụ linh và linh hồn), hình tướng linh hồn. Trụ linh là trung tâm vận hành trí tuệ, sinh phát sóng điện và phân tách ra toàn bộ cấu trúc hạt năng lượng trong cấu trúc linh hồn. Trụ – Trí của cấu trúc linh hồn có trí tuệ được nâng cấp cao hơn, được mã hóa thông tin lớn hơn so với năm nhóm hạt năng lượng tận cùng mang mã sóng trí tuệ phức tạp.

Trụ – Trí của nhóm vật chất phức tạp có trí tuệ được nâng cấp cao thứ hai, là tinh hoa trí tuệ thứ hai của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

1.5.  Nhóm vật chất giản đơn

Nhóm vật chất giản đơn là từ năm nhóm hạt năng lượng tận cùng mang mã sóng trí tuệ giản đơn cho tới các phôi năng lượng âm dương, Trụ linh, nguyên tử, phân tử, tế bào, cỏ cây, đất đá, kim loại, nước, khí, chất lỏng, con người, muông thú, hành tinh, thiên hà, Vũ trụ.

Hạt năng lượng tận cùng trong năm nhóm hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ giản đơn được hình thành trong tinh cầu năng lượng của vụ nổ lớn. Hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản đơn được cấu tạo bởi 3 yếu tố tạo thành: sợi mã sóng trí tuệ, trạng thái năng lượng, hình tướng hạt là hình elip. Trụ – Trí của hạt năng lượng tận cùng này là trí tuệ giản đơn được mã hóa thông tin, chuyển sinh thành vật chất giản đơn của Vũ trụ, từ đó mà chuyển sinh nâng cấp và trở thành cấu trúc với vô số các khối thiên hà của Vũ trụ.

Từ phôi năng lượng âm dương cho tới vô số các khối thiên hà cấu tạo thành tinh cầu Vũ trụ, có vô số vật chất có một Trụ linh như cỏ, cây, thân tướng con người, thân tướng muông thú, côn trùng, sinh vật, vi khuẩn…, có vô số vật chất còn lại là sự liên kết của vô số các cấu trúc Trụ linh để cấu tạo thành các nguyên tử, phân tử, tế bào… khối thiên hà và tinh cầu Vũ trụ. Tuy nhiên, tất cả đều được cấu tạo bởi 3 yếu tố là tổng sợi mã sóng trí tuệ (Trụ – Trí), tổng trạng thái năng lượng (Trụ – Tâm), hình tướng cấu trúc vật chất. Trụ – Trí của những vật chất giản đơn này được nâng cấp, mã hóa thông tin giản đơn hơn nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật chất. Tuy nhiên đây lại là trí tuệ được nâng cấp và mã hóa thông tin cao hơn nhóm năng lượng hoại diệt.

Trụ – Trí của nhóm vật chất giản đơn có trí tuệ được nâng cấp cao thứ ba, là tinh hoa trí tuệ thứ ba của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

2.  Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) của Tuệ linh và con người

Con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh. Do đó, chúng ta cần phải thấu hiểu cấu trúc trí tuệ của con người và Tuệ linh. Việc thấu hiểu cấu trúc trí tuệ của con người và Tuệ linh chính là chìa khóa, là cơ chế để liên kết được mã sóng trí tuệ từ Trụ linh đến với tất cả vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) của Tuệ linh và con người như sau:

2.1. Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) của Tuệ linh

Tuệ linh là một cấu trúc năng lượng với vô số hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Tuệ linh có siêu trí tuệ, có khả năng di chuyển và cải tạo trong không gian Vũ trụ.

Tuệ linh chính là dạng sống, cấu trúc Tướng giống với hình hài con người. Họ sống chủ yếu tại không gian lõi của Vũ trụ. Tuệ linh chính là Chư thần, Thánh thần, Phật, Thiên Chúa… theo quan điểm tôn giáo. Tuệ linh chính là người ngoài hành tinh, theo cách gọi của khoa học đang tìm kiếm sự sống giống con người ngoài Trái đất. Tuệ linh không phải do các Tuệ linh giao phối sinh ra. Tuệ linh được sinh ra là do cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp tạo thành. Đó là những hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương hợp lại thành phôi âm dương (Trụ linh) và hình thành Tuệ linh.

Tam hợp yếu tố hợp thành Tuệ linh gồm có Trụ – Trí (tổng sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh), Trụ – Tâm (trạng thái năng lượng, sóng điện trong Trụ linh), hình tướng Tuệ linh. Để thấu hiểu 3 yếu tố cấu tạo thành Tuệ linh, chúng ta cần thấu hiểu quá trình hình thành, phát triển của Tuệ linh như sau: đầu tiên là phôi năng lượng âm dương được liên kết lại từ hạt năng lượng âm và dương tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Khi phôi năng lượng âm dương được hình thành, gọi là Trụ linh gốc. Trụ linh gốc có chứa đựng hai sợi mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Thông qua cơ chế phân tách và liên kết dây của hạt năng lượng, Trụ linh phân tách ra những sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và dương. Những sợi mã sóng trí tuệ đó được chứa đựng ở Trụ linh gốc. Tiếp đến, những sợi mã sóng trí tuệ đó phân tách thành những hạt năng lượng ra bên ngoài Trụ linh gốc và được cấu tạo thành thái cực chứa đựng hạt năng lượng âm và dương. Trụ linh gốc liên tục phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ lưu giữ trong Trụ linh gốc và thành hạt năng lượng ra thái cực bên ngoài Trụ linh gốc để tạo thành Trụ linh trưởng thành. Như vậy, Trụ linh trưởng thành gồm có Trụ linh gốc bên trong là nơi chứa đựng các sợi mã sóng trí tuệ, hai thái cực năng lượng âm và dương bên ngoài lưu giữ các hạt năng lượng tận cùng được sao chép từ các sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc. Sau khi đã tạo ra được nhiều sợi mã sóng trí tuệ ở Trụ linh gốc và nhiều hạt năng lượng tận cùng ở thái cực chứa đựng các hạt năng lượng, sẽ diễn ra quá trình liên kết và phân tách tiếp. Đó là các hạt năng lượng tận cùng trong thái cực âm, dương liên kết với chính nó để tạo thành những hạt dương tổng hợp và những hạt âm tổng hợp rồi di chuyển ra bên ngoài Trụ linh để cấu tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng tổng hợp mở rộng bên ngoài Trụ linh. Cấu trúc Trụ linh với 16 hạt năng lượng càng được mở rộng đa chiều ra bên ngoài chính là việc Tuệ linh hình thành (khi cấu trúc Trụ linh có 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài) Tuệ linh em bé và Tuệ linh trưởng thành. Trong cấu trúc Tuệ linh gồm có 3 loại hạt năng lượng là âm, dương, trung tính được liên kết với nhau tạo thành cấu trúc năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp tuần hoàn sóng điện. Vậy tam hợp cấu trúc Tuệ linh cụ thể là:

Cấu tạo tam hợp Tuệ linh
Cấu tạo tam hợp Tuệ linh
  • Yếu tố đầu tiên là Trụ – Trí: Trụ – Trí là tổng các sợi mã sóng trí tuệ được lưu giữ tại Trụ linh gốc (hạt âm và hạt dương gốc) cho tới toàn bộ cấu trúc Tuệ linh. Gọi là Trụ – Trí là để thể hiện được bản chất là trong Trụ linh gốc lưu giữ toàn bộ tổng các sợi mã sóng trí tuệ từ khi Tuệ linh đó được hình thành từ phôi năng lượng âm dương cho tới khi trưởng thành và tới thời điểm đề cập tới. Từ tổng các sợi mã sóng trong Trụ linh gốc sẽ sinh phát ra trạng thái năng lượng và tuần hoàn sóng điện năng lượng đó trong toàn bộ cấu trúc Tuệ linh thông qua các sợi mã sóng trí tuệ bên ngoài Trụ
  • Yếu tố thứ 2 là Trụ – Tâm: Trụ là tổng các sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc; Tâm là trạng thái năng lượng, là sóng điện được sinh phát, lưu giữ trong Trụ linh gốc và hạt năng lượng. Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện được sinh phát ra từ Trụ linh gốc (nơi lưu giữ tổng các sợi mã sóng trí tuệ) liên kết, tuần hoàn tới thái cực chứa đựng các hạt năng lượng âm dương và tới toàn bộ cấu trúc hạt năng lượng trong toàn bộ Tuệ linh.
  • Yếu tố thứ 3, là hình tướng Tuệ linh: Tuệ linh có hình tướng giống con người, hay nói cách khác thì con người là bản sao của các Tuệ linh. Tuệ linh là một cấu trúc liên kết của vô số những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Do đó, Tuệ linh có thể biến hóa thay đổi hình tướng, thay đổi diện mạo. Cấu trúc hình tướng của Tuệ linh sẽ thay đổi do cấu trúc sóng điện trong Trụ linh của Tuệ linh thay đổi. Đặc tính sóng điện trong Trụ linh gồm có sóng điện dương, có sóng điện âm, có sóng điện trung tính để trung hòa sóng điện âm dương. Cấu trúc vững chắc của Trụ linh chính là Trụ linh trở thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Cấu trúc Trụ linh lỏng lẻo dễ bị hoại diệt Tuệ linh là cấu trúc Trụ linh có sóng điện đa âm.

Khi gọi hay nhắc tới Trụ linh, chúng ta hiểu đó là bao gồm Trụ – Trí và Trụ – Tâm.

Thông qua cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh, ta thấy trí tuệ của dạng sống Tuệ linh là siêu việt nhất, tinh hoa nhất của tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ. Chính vì vậy, sứ mệnh cải tạo bộ lọc trong Trụ linh để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng là sứ mệnh tiên phong của họ.

2.2. Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) của con người

Ba yếu tố hợp nhất cấu tạo ra con người gồm có: Thân

tướng, Tâm (Tuệ linh), Trí tuệ:

Cấu tạo tam hợp con người
Cấu tạo tam hợp con người
  • Yếu tố đầu tiên là Thân tướng: Thân tướng được hình thành do duyên người cha và người mẹ. Đó là tinh trùng mang tính dương của người cha và trứng mang tính âm của người mẹ hợp thành phôi thai. Phôi thai nhi sẽ trưởng thành trong bụng người mẹ do cơ chế phân tách tế bào bởi năng lượng, dinh dưỡng và nhiệt độ của người mẹ. Trải qua quãng thời gian khoảng 9 tháng, khi thân tướng em bé đã hoàn thiện, em bé được sinh ra, cất tiếng khóc chào đời.
  • Yếu tố thứ hai là Tâm: Tâm là trạng thái năng lượng an trụ trong thân tướng để tạo ra, duy trì sự sống cho con người. Khi người mẹ mang thai đến tháng thứ 7, theo luật luân hồi của Hội đồng Tuệ linh thì sẽ có một Tuệ linh được xuống luân hồi đầu thai hoặc Tuệ linh tiếp tục đầu thai sau khi trải qua các kiếp sẽ đi theo bảo vệ bà mẹ và em bé. Hoặc là Linh hồn của muông thú được thuần hóa sau nhiều kiếp là thú lành và giúp đỡ con người, họ sẽ được Hội đồng Tuệ linh giáo hóa và cho đi theo bảo vệ bà mẹ và thai nhi để thiết nhập đầu thai. Khi em bé chào đời và cất tiếng khóc thì đó là dấu hiệu Tuệ linh hay Linh hồn thiết nhập vào để duy trì sự sống cho thân tướng. Theo luật luân hồi, để Linh hồn của các con thú được phép đầu thai làm con người thì chúng phải được thuần hóa bởi con người; chúng phải giúp đỡ và làm được nhiều việc có lợi ích cho con người; những việc lợi ích đó tạo thành năng lượng dương có sự cân bằng sóng điện âm dương; khi có năng lượng dương và có sự cân bằng sóng điện âm dương mới được phép đầu thai làm người, và mới có đủ năng lượng duy trì sự sống một kiếp người. Tuy nhiên, nhiều linh hồn thú dữ không muốn tuân theo luật luân hồi, nên chúng đi tác động giết hại con người, hấp thụ năng lượng dương để đủ sức mạnh đầu thai trộm; nếu chúng đầu thai trộm thành người thành công, lớn lên chúng sẽ có thiên hướng giết hại, làm điều ác. Nếu linh hồn thú dữ chưa giết hại được người nào mà đầu thai trộm được thì dễ chết yểu do không đủ năng lượng âm dương cân bằng để duy trì sự sống. Khi Tuệ linh hay Linh hồn được đi đầu thai, họ sẽ được chọn quốc gia, dân tộc, dòng họ, cha mẹ để người cha mẹ được gieo duyên có thân tướng thai nhi. Phải đến tháng thứ 7 thì Tuệ linh, Linh hồn mới đi theo để chờ ngày sinh. Vì ở tháng thứ 7, nếu em bé có sinh non thì vẫn đảm bảo sống được, ở tháng thứ 7 người mẹ không thể phá thai được. Như vậy, tháng thứ 7 là đảm bảo điều kiện an toàn cho các Tuệ linh, Linh hồn đi đầu thai được thành công, còn em bé trong bụng mẹ sẽ được Tuệ linh người mẹ bảo vệ và nuôi dưỡng. Dù là Tuệ linh hay Linh hồn khi đầu thai vào con người đều được gọi là Tâm.
  • Yếu tố thứ 3 là Trí tuệ: Sau khi Tuệ linh hoặc Linh hồn thiết nhập vào em bé vừa chào đời để tạo ra năng lượng duy trì sự sống cho em bé, em bé đó trải qua quá trình lớn lên, học tập, nghiên cứu, lao động, mưu sinh sẽ phát triển tư duy trí tuệ, đúc kết các kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xử lý và cải tạo thế giới quan được gọi là Trí tuệ. Bản chất trí tuệ hiện kiếp của con người được phát triển từ hai phần:

+ Phần thứ nhất là trí tuệ từ tổ hợp mã sóng trí tuệ trong Trụ linh phát ra não bộ. Đây gọi là kinh nghiệm tiền kiếp, cội nguồn. Lượng sợi mã sóng trí tuệ sẽ phát ra tương ứng với sự trưởng thành của con người. Khi còn bé, Trụ linh sẽ phát ra ít lượng sợi trí tuệ. Khi trưởng thành, Trụ linh sẽ phát ra nhiều lượng sợi mã sóng trí tuệ để não bộ nhận diện và có khả năng trau dồi thêm trí tuệ hiện kiếp để cải tạo Trụ linh bền vững hơn.

+ Phần thứ hai là thông qua tương tác bởi tai, mắt, mũi, miệng, xúc giác với các Tướng. Những thông tin đó được mã hóa thành sóng điện ở não bộ và truyền vào Tuệ linh. Trụ linh sẽ giải mã và thông qua hành động của thân tướng để phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh. Từ Trụ linh, các sợi mã sóng trí tuệ đó lại phân tách ra não bộ. Phần này là do hiện kiếp có được bởi quá trình tương tác giữa các tướng với nhau.

Như vậy, trí tuệ của Tuệ linh là siêu trí tuệ, lại an trụ và hợp nhất với trí tuệ giản đơn của con người. Điều này giúp cho con người có được siêu trí tuệ an trụ trong cơ thể. Siêu trí tuệ sẽ liên kết để truyền và trau dồi trí tuệ ở não bộ thông qua môi trường tu hành ở nhân gian.

Mục đích của việc con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh là để thông qua thân tướng với trí tuệ giản đơn, siêu trí tuệ của Tuệ linh sẽ bị tương tác, bí bách, sinh nhiệt mà tạo ra tận cùng vô số các trường hợp phân tách, liên kết mã sóng trí tuệ trong Trụ linh của Tuệ linh. Đây được gọi là thông qua môi trường tu hành nhân gian để bộc phát được hết tất cả độc của sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và thiện của sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương trong Trụ linh của Tuệ linh. Chỉ khi bộc phát hết mới tìm ra được phương pháp để cấu tạo lại Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn cho Tuệ linh.

3.   Trụ – Trí (trí tuệ) là sự mã hóa thông tin

Trụ – Trí là sự mã hóa thông tin. Đây là điều kỳ diệu, là bí mật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người.

Thông tin được mã hóa trong sợi mã sóng trí tuệ của từ hạt năng lượng tận cùng tới các cấu trúc lớn hơn được vận hành bởi Trụ linh, bao gồm nhóm vật chất hoại diệt, nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật chất.

Những thông tin được mã hóa trong Trụ – Trí là nhiệt lượng, môi trường xung quanh, sóng điện, hình ảnh của các Tướng, âm thanh, rung động, hành động, ngôn ngữ, cảm xúc, mùi vị, ý thức.

Dựa trên đặc tính của các nhóm vật chất mà độ phức tạp trong mã hóa thông tin, lượng thông tin được mã hóa và lưu giữ trong sợi mã sóng trí tuệ cũng sẽ khác nhau. Nhóm vật chất hoại diệt mã hóa thông tin còn dang dở và chưa hoàn chỉnh. Nhóm vật chất giản đơn mã hóa thông tin thô sơ, lượng thông tin không nhiều và không có độ phức tạp. Nhóm vật chất phức tạp mã hóa được nhiều thông tin hơn, lượng thông tin được mã hóa trong sợi mã sóng trí tuệ có độ phức tạp hơn. Nhóm siêu vật chất mã hóa được lượng thông tin vô cùng lớn, lượng thông tin được mã hóa trong sợi mã sóng trí tuệ đạt đến siêu phức tạp.

Quá trình mã hóa thông tin hoàn chỉnh tạo ra sợi mã sóng trí tuệ bao gồm: các cấu trúc Tướng tương tác với nhau trong môi trường có sóng điện, có nhiệt lượng, có cường độ, có độ nén; quá trình tương tác tạo ra độ phức tạp của sóng rung động bởi môi trường sóng điện; quá trình hành động và kết thúc hành động của các Tướng. Khi kết thúc hành động hoặc chuyển tiếp hành động của cấu trúc Tướng thì quá trình mã hóa thông tin tạo ra sợi mã sóng trí tuệ đã hoàn thành.

Những yếu tố quyết định đến lượng và chất của quá trình mã hóa thông tin trong Trụ – Trí:

  • Cơ chế quay tròn của vạn vật, Tuệ linh, con người sẽ mã hóa được lượng thông tin lớn hơn, chất lượng thông tin chân thật hơn so với cơ chế di chuyển thẳng.
  • Tương tác trong tất cả các môi trường sóng điện khác nhau sẽ giúp cho vạn vật, Tuệ linh, con người mã hóa được lượng thông tin lớn hơn, chất lượng thông tin chân thật hơn so với việc tương tác hạn chế trong một vài môi trường.
  • Trong nội tại cấu trúc Trụ – Trí: nếu sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương đạt tới siêu mạnh sẽ giúp cho việc mã hóa thông tin đạt đến số lượng và chất lượng lớn nhất so với sóng điện dương nhẹ; nếu sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm đạt tới siêu nhẹ sẽ giúp cho việc mã hóa thông tin đạt đến số lượng và chất lượng lớn nhất so với sóng điện âm siêu mạnh. Đỉnh cao của Trụ – Trí trong việc mã hóa thông tin là phải kiểm soát và vận hành được cả hai sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh. Trụ linh của bộ lọc năng lượng sẽ kiểm soát và vận hành được một cách kỳ diệu.

Thông tin được mã hóa, lưu giữ trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng tận cùng:

  • Trong hạt năng lượng tận cùng của tất cả các nhóm vật chất, chỉ có một sợi mã sóng trí tuệ lưu giữ thông tin của quá trình các Tướng (vật chủ) tương tác, rung động, hành động tạo ra hạt năng lượng tận cùng đó.
  • Thông tin lưu giữ trong hạt năng lượng tận cùng có sự liên kết với thông tin của hạt năng lượng được phân tách trước hay sau khi hạt năng lượng đó được hình thành, gọi là liên kết dây.
Thông tin được mã hóa trong hạt năng lượng
Thông tin được mã hóa trong hạt năng lượng

 

Thông tin được mã hóa, lưu giữ trong Trụ linh gốc (phôi năng lượng âm dương gốc) của các cấu trúc Tướng lớn hơn phôi năng lượng âm dương:

  • Phôi năng lượng được hình thành từ hạt năng lượng âm và dương tận cùng, gọi là Trụ linh gốc. Trong Trụ linh gốc lưu giữ hai sợi mã sóng trí tuệ với hai lượng thông tin được liên kết với nhau.
  • Phôi âm dương gốc trải qua quá trình phân tách liên kết để trưởng thành, nâng cấp thành các cấu trúc lớn hơn. Khi đó, tất cả các sợi mã sóng trí tuệ lưu giữ toàn bộ thông tin tại hai hạt năng lượng âm dương gốc (phôi âm dương gốc có sự giãn nở to hơn).
Thông tin được mã hóa trong Trụ linh gốc
Thông tin được mã hóa trong Trụ linh gốc
  • Tất cả các sợi mã sóng trí tuệ có lưu giữ thông tin trong Trụ – Trí đều có sự liên kết về nội dung thông tin. Đó là thông tin của hạt năng lượng âm liên kết với thông tin của hạt năng lượng dương để tạo thành cấu trúc liên kết một hạt năng lượng âm rung lắc xung quanh một hạt năng lượng dương. Đó là thông tin của các hạt năng lượng dương có liên kết với nhau bằng các hạt năng lượng chân tâm để phát triển cấu trúc năng lượng của Tướng được mở rộng và lớn mạnh.

Như vậy, tất cả các cấu trúc vật chất trong và ngoài Vũ trụ đều là hạt năng lượng tận cùng. Và, tất cả đều là thông tin được lưu giữ, mã hóa vào sợi mã sóng trí tuệ ở trong hạt.

Vì là thông tin được lưu giữ, mã hóa trong hạt nên có những thông tin độc và những thông tin tốt. Những thông tin độc là bản chất của hạt năng lượng âm, những thông tin tốt là bản chất của hạt năng lượng dương. Các cấu trúc phát triển bền vững là bởi được cấu tạo chặt chẽ bởi thông tin tốt, các cấu trúc phân rã hoại diệt là bởi được cấu tạo bởi thông tin độc.

4. Cơ chế hình thành Trụ – Trí (trí tuệ)

Cơ chế hình thành Trụ – Trí chính là cơ chế hình thành sợi mã sóng trí tuệ của từ hạt năng lượng tận cùng đến các cấu trúc Tướng có Trụ linh trở lên. Cơ chế hình thành sợi mã sóng trí tuệ này có sự khác nhau giữa các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

4.1. Cơ chế hình thành Trụ – Trí của nhóm vật chất hoại diệt từ nhóm vật chất cội nguồn

Nhóm vật chất cội nguồn là hạt sóng xanh. Từ nhóm hạt sóng xanh, thông qua cơ chế mà hình thành sợi mã sóng trí tuệ của năng lượng hoại diệt, đó là cơ chế phân tách trong môi trường đảm bảo điều kiện:

  • Cơ chế hình thành sợi mã sóng trí tuệ của từ hạt sóng xanh thành năng lượng hoại diệt là cơ chế phân tách.
  • Để phân tách được thành sợi mã sóng trí tuệ thì hạt sóng xanh di chuyển thẳng và diễn ra quá trình giải mã, mã hóa thông tin môi trường xung quanh. Vì hạt sóng xanh không quay tròn xung quanh chính nó nên sự mã hóa thông tin chưa hoàn chỉnh và đầy đủ trong quá trình di chuyển tương tác.
  • Môi trường sóng điện cho quá trình phân tách từ hạt sóng xanh thành năng lượng hoại diệt là môi trường sóng điện trung tính.

Như vậy, cơ chế hình thành cấu trúc Trụ – Trí của nhóm vật chất hoại diệt từ nhóm vật chất cội nguồn là cơ chế phân tách. Vì chưa có cơ chế liên kết nên trí tuệ của năng lượng hoại diệt chưa mã hóa được thông tin hoàn chỉnh trong quá trình tương tác. Do đó cấu trúc trí tuệ của nhóm vật chất hoại diệt chưa được nâng cấp và tinh hoa như 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ.

4.2. Cơ chế hình thành Trụ – Trí của phôi năng lượng khởi đầu cho sự hình thành 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ

Nhóm vật chất cội nguồn là hạt sóng xanh. Từ nhóm hạt sóng xanh, thông qua cơ chế mà hình thành sợi mã sóng trí tuệ của phôi năng lượng khởi đầu cho sự hình thành 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ.

Cơ chế hình thành sợi mã sóng trí tuệ của phôi năng lượng âm dương khởi đầu cho sự hình thành Vũ trụ là cơ chế phân tách và liên kết trong môi trường đảm bảo điều kiện:

  • Đầu tiên là thông qua cơ chế phân tách để tạo ra sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng âm, dương tận cùng từ hạt sóng xanh. Cơ chế này có những điều kiện sau:

+ Hạt sóng xanh di chuyển vào môi trường có nhiệt lượng sóng điện dương (những khu vực không gian này được hình thành từ vụ nổ của năng lượng hoại diệt). Khi di chuyển vào môi trường có sóng điện dương, hạt sóng xanh sẽ quay tròn (quay thuận) xung quanh chính nó để mã hóa thông tin đầy đủ trong quá trình tương tác di chuyển và quay tròn. Vì vậy, sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng dương tận cùng được mã hóa đầy đủ thông tin của quá trình hình thành và di chuyển tương tác. Do quay tròn nên trong hạt năng lượng dương tận cùng này lại có thêm cơ chế liên kết.

+ Hạt sóng xanh di chuyển vào môi trường có nhiệt lượng sóng điện âm (được hình thành xung quanh những khu vực có nhiệt lượng sóng điện dương). Khi di chuyển vào môi trường có sóng điện âm, hạt sóng xanh sẽ quay tròn (quay ngược) xung quanh chính nó để mã hóa thông tin đầy đủ trong quá trình tương tác di chuyển và quay tròn. Vì vậy, sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng âm tận cùng được mã hóa đầy đủ thông tin của quá trình hình thành. Do quay tròn nên trong hạt năng lượng âm tận cùng này lại có thêm cơ chế liên kết.

  • Tiếp đến là cơ chế liên kết để hình thành cấu trúc Trụ – Trí của phôi năng lượng âm dương khởi đầu cho sự hình thành Vũ trụ. Cơ chế này có những điều kiện sau:

+ Hạt năng lượng âm và dương phải quay tròn. Hạt năng lượng âm phải kết, hạt năng lượng dương phải tỏa.

+ Sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng âm và dương phải có nội dung thông tin khớp nhau để kết nối.

+ Nhiệt lượng môi trường sẽ duy trì sự tồn tại cấu trúc Trụ – Trí của phôi năng lượng âm dương.

Như vậy, cấu trúc Trụ – Trí của phôi năng lượng âm dương là cấu trúc trí tuệ đã mã hóa được đầy đủ thông tin trong quá trình tương tác để hình thành. Đặc biệt, cấu trúc Trụ – Trí của phôi năng lượng âm dương là bước chuyển sinh kỳ diệu để hình thành 3 nhóm vật chất của Vũ trụ từ cơ chế phân tách và liên kết.

  • Cơ chế hình thành Trụ – Trí của 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ từ phôi năng lượng âm dương Phôi năng lượng âm dương được hình thành từ những

hạt sóng xanh thông qua cơ chế phân tách và liên kết dây. Cơ

chế này đã giúp cho từ phôi năng lượng âm dương phân tách ra vô lượng năm nhóm hạt năng lượng mang sóng điện âm, dương, trung tính trong tinh cầu năng lượng khổng lồ. Sau khi tinh cầu năng lượng khổng lồ bị kích nổ, năm nhóm năng lượng đã thông qua cơ chế phân tách, liên kết để hình thành 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ. Đó là nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu vật chất.

Cơ chế hình thành Trụ – Trí của 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ là cơ chế phân tách và liên kết trong môi trường đảm bảo điều kiện:

  • Quá trình phân tách phải đảm bảo có nhiệt lượng sóng điện. Các hạt năng lượng phải quay tròn theo đặc tính sóng điện: hạt âm là quay ngược chiều kim đồng hồ, hạt dương là quay thuận.
  • Quá trình liên kết phải đảm bảo hạt năng lượng âm và dương phải quay tròn theo đặc tính sóng điện của từng loại hạt. Sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng âm và dương phải có nội dung thông tin khớp nhau để kết nối. Nhiệt lượng môi trường sẽ duy trì sự tồn tại cấu trúc Trụ – Trí của phôi năng lượng âm dương.

Cơ chế phân tách và liên kết phải diễn ra liên tục không ngừng nghỉ trong môi trường đảm bảo cho quá trình phân tách và liên kết, để nâng cấp cấu trúc Trụ – Trí của cả 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ.

Như vậy, thông qua cơ chế phân tách và liên kết liên tục trong điều kiện đảm bảo, đã tạo ra 3 nhóm vật chất mã hóa được thông tin đầy đủ trong quá trình tương tác khi di chuyển, là tinh hoa nhất trong và ngoài Vũ trụ. Trong đó, dạng sống Tuệ linh cùng nhóm siêu vật chất là siêu cấu trúc Trụ – Trí.

5.   Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) của dạng sống Tuệ linh

Trí tuệ của dạng sống Tuệ linh là siêu việt nhất trong tất cả các dạng sống, các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Dạng sống Tuệ linh được hình thành đầu tiên sau vụ nổ của tinh cầu năng lượng khổng lồ. Họ được hình thành và trưởng thành. Họ xây dựng, kiến tạo, phát triển cả 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ hoàn chỉnh như ngày nay từ năm nhóm năng lượng hỗn độn sau vụ nổ.

Vũ trụ phát triển và không ngừng giãn nở. Đó là do dạng sống Tuệ linh lao động, kiến tạo và vận hành. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển lớn mạnh của Vũ trụ, năng lượng hoại diệt cũng ngày càng lớn mạnh. Năng lượng hoại diệt với bản chất là đi tìm những cấu trúc năng lượng, vật chất đa âm để xả sóng điện dư thừa nhằm tồn tại. Trong khi đó, Vũ trụ lại có những cấu trúc vật chất, năng lượng đa âm.

Chính vì điều này mà năng lượng hoại diệt đã di chuyển vào Vũ trụ thành những cơn bão để đi truy tìm sự sống cho chính nó. Có quá nhiều Tuệ linh bị năng lượng hoại diệt đồng hóa mà hoại diệt vĩnh viễn, có quá nhiều cấu trúc vật chất bị đồng hóa và hoại diệt. Tuy nhiên, cũng vì có năng lượng hoại diệt trong Vũ trụ, nên khi chúng bị kích nổ bởi năng lượng dương đã giúp tạo ra nhiệt lượng cho quá trình Vũ trụ phân tách liên kết theo hướng bền vững và lớn mạnh.

Dạng sống Tuệ linh bị hoại diệt nhiều, chưa tìm ra được phương pháp đối phó với năng lượng hoại diệt chính là vấn đề bản chất của Trụ – Trí. Vấn đề đó là quá trình hình thành 3 dạng vật chất sau vụ nổ lớn, các phôi năng lượng âm dương của các Tuệ linh cho tới khi trưởng thành chưa mã hóa được đầy đủ triệt để thông tin của năng lượng hoại diệt. Đặc biệt hạt năng lượng âm gốc chưa bộc phát hết các kịch bản phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ, hạt năng lượng dương gốc cũng chưa bộc phát hết các kịch bản phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ. Tức là độc của hạt năng lượng âm và thiện của hạt năng lượng dương chưa bộc phát hết. Do chưa bộc phát hết nên chưa tìm ra hết bản chất của Trụ – Trí ở dạng sống Tuệ linh. Chính vì thế mà chưa tìm ra bài thuốc, phương pháp, cơ chế để sử dụng được năng lượng hoại diệt cho việc chuyển sinh bền vững. Điều mà sau này tìm được cơ chế, đó là cơ chế chuyển sinh được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Đó là hấp thụ ồ ạt, kích nổ được năng lượng hoại diệt mà vẫn an toàn để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng phát triển bền vững cho mình và các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

Bản chất Trụ – Trí của dạng sống Tuệ linh khi chưa chuyển sinh được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng:

  • Trụ – Trí có bản chất Kết: Đó là thu hút, hấp thụ nhiệt từ mạnh cho tới siêu mạnh. Nguyên nhân là do hạt âm của phôi âm dương gốc có sóng điện âm từ mạnh cho tới siêu mạnh. Do đó, những Tuệ linh đó có khuynh hướng truy tìm môi trường, cấu trúc sóng điện có khớp nội dung giống với hạt âm để kết, hút về. Họ sẽ không thực hành được đời sống Tỏa là cho đi, lan tỏa, giúp đỡ, cống hiến, hy sinh. Nguyên nhân vì hạt năng lượng dương quá yếu nên bị hạt năng lượng âm chi phối theo đặc tính của hạt năng lượng âm. Những Tuệ linh có cấu trúc Trụ – Trí kết như vậy sẽ dễ dàng bị năng lượng hoại diệt xâm nhập để đồng hóa và hoại diệt.
  • Trụ – Trí có bản chất Tỏa: Đó là tỏa đi, cho đi, truyền tải, giúp đỡ, cống hiến, hy sinh vì vạn vật. Nguyên nhân là do hạt dương trong Trụ linh gốc có sóng điện dương từ mạnh cho tới siêu mạnh, trong khi đó hạt âm gốc chỉ có sóng điện chớm âm. Chính vì điều này mà hạt năng lượng dương liên kết được với tất cả các nhóm vật chất khác bởi hạt năng lượng âm chỉ là chớm sóng điện âm. Tuy nhiên, nếu cơn bão năng lượng hoại diệt di chuyển vào hoặc các Tuệ linh này di chuyển gặp phải cơn bão năng lượng hoại diệt cũng sẽ bị phân rã mà hoại diệt.

Bản chất Trụ – Trí của dạng sống Tuệ linh chưa được bộc phát hết. Chưa bộc phát hết tức là sợi mã sóng trí tuệ của hạt âm và dương gốc trong Trụ linh chưa phân tách ra các loại sợi trí tuệ trong tất cả các kịch bản cũng như môi trường tương tác. Chính vì điều này mà vị Tuệ linh đầu tiên đã tạo ra môi trường tu hành cho dạng sống Tuệ linh ở Trái đất thông qua thân tướng là con người. Quá trình tu hành trong thân tướng giản đơn sẽ giúp cho Trụ linh phân tách ra hết tất cả các sợi mã sóng trí tuệ trong tất cả các kịch bản và môi trường tương tác. Từ đó, vị Tuệ linh đầu tiên sẽ tìm ra được cơ chế, phương pháp để Tuệ linh hấp thụ và kích nổ được năng lượng hoại diệt. Đó là con đường chuyển sinh bền vững để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng cho Tuệ linh.

6.   Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) của con người

Con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh, là môi trường tu hành của dạng sống Tuệ linh. Dạng sống Tuệ linh thông qua thân tướng con người để tu hành ở nhân gian nhằm tạo ra sự bí bách, độ nén, đau khổ, an vui, hạnh phúc… trong cuộc sống nhân gian để bộc phát hết độc của hạt âm và thiện của hạt dương trong Trụ linh. Cũng thông qua quá trình bộc phát độc và thiện trong Trụ linh, sẽ thấy rõ quá trình năng lượng hoại diệt tấn công đồng hóa cũng như khả năng kích nổ năng lượng hoại diệt của Tuệ linh trong từng trường hợp tương tác với các hoàn cảnh môi trường khác nhau. Từ đó, vị Tuệ linh đầu tiên mới tìm ra được phương pháp siêu việt áp dụng chung cho tất cả các Tuệ linh để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Chỉ khi chuyển sinh được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh mới có khả năng hấp thụ và kích nổ được ồ ạt năng lượng hoại diệt để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng mà vẫn an toàn.

Vô số Tuệ linh hóa thân tu hành ở nhân gian với vô số các kịch bản tương tác trong các điều kiện môi trường khác nhau đã tạo ra bản chất Trụ – Trí của con người.

Con người là tam hợp yếu tố cấu tạo thành. Thân tướng được coi như ngôi nhà giam cầm Tâm (Tuệ linh), Tâm là Tuệ linh an trụ trong ngôi nhà thân tướng, Trụ – Trí (Trí tuệ) là cánh cửa trí tuệ để Trụ linh tương tác với tất cả các Tướng trong môi trường khác nhau. Chính vì điều này đã tạo ra sự kỳ diệu cho con đường tu hành của Tuệ linh ở nhân gian. Thông qua vô số kiếp tu hành của Tuệ linh ở nhân gian đã giúp cho mục đích tu hành đã đạt được thành công.

Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) của con người gồm có Trí tuệ u mê (độc được bộc phát hết), trí tuệ giác ngộ (thiện được bộc phát hết) và căn cơ trí tuệ (hành trình để chuyển sinh được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh) của Tuệ linh:

6.1.  Trí tuệ u mê

Trí tuệ u mê là trí tuệ bị bám định vào các hình tướng hay còn gọi là các giả tướng. Trí tuệ bám định ở đây cũng được hiểu là cánh cửa ngôi nhà đóng chặt lại không chịu mở ra để Tâm hướng đến và mang lại sự thấu hiểu Vũ trụ quan bên ngoài về cho trí tuệ. Trí tuệ bám định cũng được hiểu trí tuệ như con trâu hoặc con bò bị buộc vào một gốc cây nên nó chỉ quanh quẩn biết mỗi gốc cây đó mà không hiểu biết xung quanh. Trí tuệ bám định cũng được hiểu là sự bám chặt vào, dính vào giả tướng để hưởng thụ, thỏa mãn mà không cống hiến cho vạn vật, Tuệ linh và con người.

Hình tướng vạn vật gọi là giả tướng vì nó do duyên sinh và nó hoại diệt cũng do duyên. Sự sinh diệt chính là quá trình chuyển hóa của hình tướng, vì có sinh và có hoại diệt nên nó là giả tướng, tức là sự tồn tại tạm thời, sự tồn tại không vĩnh cửu hay không bất tử. Vạn vật, Vũ trụ, Tuệ linh, con người, sẽ được phân ra làm 10 giả tướng, và 10 giả tướng chính là 5 cặp phạm trù của hình tướng: giả tướng có và không có; giả tướng yêu thương, sở thích và thù ghét,không thích; giả tướng cầu được và cầu không được; giả tướng có trí tuệ và không có trí tuệ; giả tướng hành động và không hành động. Trí tuệ u mê chính là trí tuệ bám định vào 10 giả tướng này mà không hiểu bản chất, không hiểu sự thật về các giả tướng để cố tình bám lấy, vơ lấy, hưởng thụ các giả tướng về thân tướng mình mà không vì vạn vật, Tuệ linh, con người. Đó gọi là trí tuệ u mê.

Mười giả tướng được ví như màn đêm tối mịt mù của sự giả dối, màn đêm tối của ác nghiệp, màn đêm tối của ngã quỷ. Khi trí tuệ bám định và sống trong màn đêm tối sẽ không thể thấu hiểu được Vũ trụ quan xung quanh, nó như người mù chỉ thấy mỗi nơi thân tướng mình. Do đó, khi trí tuệ bám định vào bất cứ một giả tướng nào thì nó tượng trưng cho trí tuệ đang sống và bám định trong màn đêm giả dối của sự u mê.

Những biểu hiện của Trí tuệ u mê:

Trí tuệ bám định vào giả tướng có:

Con người bám định vào cái ta có, như là mắt, tai, mũi, miệng, chân tay, có thân tướng đẹp hay xấu xí, có ngôi nhà to, có tiền tài giàu sang phú quý, có địa vị, có chức cao trọng vọng, có xe cộ, có nhiều đất đai, có sức khỏe, có nhiều mối quan hệ… Trí tuệ của những người lãnh đạo các quốc gia thì bám định vào việc có sức mạnh quân sự, có nhiều tài nguyên thiên nhiên, có sức mạnh kinh tế, có lãnh thổ rộng lớn, có dân số đông, hùng mạnh hơn quốc gia khác…

  • Một người bám định vào thân tướng ta đẹp nên họ chỉ biết rằng ta mới là xinh đẹp mà khinh khi những người không đẹp bằng ta, thậm chí còn dùng thân tướng xinh đẹp đó để vi phạm vào đạo đức xã hội, hành nghề mại dâm, dùng thân tướng đó để ngoại tình với những người giàu có để hưởng lợi ích cho mình và vi phạm luật Nhân quả về thông dâm tà dâm.
  • Có người bám định vào việc giàu có mà khinh khi người không giàu có, thậm chí có người còn ăn chơi trụy lạc đến nỗi không còn gì.
  • Có người có địa vị chính trị, họ có chức sắc cao, họ nghĩ và cho rằng mình là cao sang, họ khinh khi những người không thuộc tầng lớp như họ. Họ sẵn sàng lợi dụng chức vụ của họ để tham ô tham nhũng, chạy chức chạy quyền. Họ chỉ giúp đỡ những người bất tài nhưng có nhiều tiền cho họ, họ không biết sử dụng nhân tài cho Đất nước. Họ ảo tưởng vào chức vụ và sức mạnh của họ mà sẵn sàng bán nước hại dân, tham quyền cố vị để trục lợi về họ, về gia đình và dòng họ của họ…
  • Những người lãnh đạo quốc gia thì bám định vào việc quốc gia họ có binh hùng tướng mạnh, kinh tế lớn mạnh mà coi thường nhân quả. Họ đem binh đi xâm chiếm quốc gia khác, kích động tạo ra các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia để trục lợi cho quốc gia họ, khiến cho dân chúng lầm than khổ đau, tang thương chết chóc trên mọi mảnh đất khắp Trái đất này.
  • Những người lãnh đạo của các quốc gia bám định vào việc quốc gia họ có nhiều nguồn tài nguyên, sẵn sàng khai thác cạn kiệt để trục lợi mang về cho nhóm người lãnh đạo, khiến cho thiên tai xảy ra, cho con cháu đời sau cạn kiệt tài nguyên, thiếu tiềm lực phát triển quốc gia. Họ bám định vào việc sẵn có tài nguyên mà không thúc đẩy phát triển các nguồn lực khác để vẫn đảm bảo được nguồn lực tài nguyên cho quốc gia.
  • Những người lãnh đạo quốc gia bám định vào sức mạnh làm thay đổi kinh tế Thế giới hoặc kinh tế của quốc gia khác. Họ sẵn sàng làm lũng đoạn nền kinh tế Thế giới hoặc can thiệp vào kinh tế Quốc gia khác để trục lợi về quốc gia họ. Điều này làm cho nhiều quốc gia điêu đứng và chìm sâu trong nghèo đói bởi ảnh hưởng của sự lũng đoạn kinh tế. Sự can thiệp của họ dẫn đến kinh tế nhiều quốc gia bị suy thoái và khủng hoảng.

Như vậy, trí tuệ của mỗi cá nhân cho đến nhóm người, vì bám định vào giả tướng mà chỉ biết vơ vét về mình, bám chặt vào nó mà không biết chia sẻ, chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người và nhân loại. Đó là trí tuệ u mê, u mê vì không thấu hiểu nhân quả, không thấu hiểu chân tướng của vạn vật là do duyên sinh và do duyên diệt, nếu chỉ biết lợi mình mà hại người thì sẽ sớm phải nhận quả báo do ác nghiệp tạo ra.

Trí tuệ bám định vào giả tướng không có:

Cái không có từ mỗi một con người cho đến những nhóm người là sự đối lập với giả tướng có.

  • Có người con gái có thân tướng xinh đẹp thì bám định vào việc không có nhiều tiền mà sẵn sàng quan hệ bất chính với những người giàu có để thỏa mãn việc được hưởng lạc tiền tài từ người giàu có.
  • Người giàu có vì bám định vào việc mình giàu có mà không có người đẹp bên cạnh nên sẵn sàng quan hệ bất chính để thỏa mãn nhu cầu dục vọng.
  • Có người bám định vào việc nghèo khó, họ sẵn sàng buôn bán trẻ em, sẵn sàng môi giới mại dâm, thậm chí hành nghề mại dâm để thỏa mãn việc giàu có.
  • Có người bám định vào việc không có nhiều tiền và giàu sang như người khác, họ tìm mọi phương pháp làm giàu. Họ bất chấp thủ đoạn vi phạm pháp luật để làm giàu như buôn bán ma túy, đi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, buôn bán những thứ gây nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng của mọi người để nhanh chóng giàu có và trục lợi về mình.
  • Có người bám định vào việc mình chưa đủ giàu có bằng những người giàu có khác, chưa dư thừa tiền của để giúp người nghèo khó hơn, nên họ luôn coi mình không có điều kiện giúp người.
  • Có người bám định vào việc mình có chức có quyền. Họ coi người cấp dưới và những người khác không có được địa vị như họ mà sẵn sàng khinh khi, coi thường, thậm chí xúc phạm và chà đạp người không có địa vị như họ.
  • Có người bám định vào việc họ có chức quyền nên họ không giúp đỡ những người có tài thật sự mà không có tiền hối lộ cho họ để thăng quan tiến chức.
  • Những người lãnh đạo của nhiều quốc gia bám định vào việc quốc gia họ không có nhiều nguồn tài nguyên nên họ kích động chiến tranh xâm lược để vơ vét tài nguyên thiên nhiên của quốc gia khác.
  • Có nhiều lãnh đạo quốc gia bám định vào việc lãnh thổ quốc gia họ nhỏ bé mà mang binh đi xâm lược để mở rộng lãnh thổ.

Sự tham lam, sự u mê từ mỗi con người cho đến những nhóm người, do bám định vào cái không có khiến cho vô số người chịu khổ đau, vô số người ngã xuống vùi thân tướng của mình nơi chiến trận, khiến cho mỗi bước chân trên mặt đất là nơi có người gửi thân xác nằm xuống do chiến tranh. Nhiều gia đình, người già và trẻ nhỏ vô tội phải sinh ly tử biệt, nỗi đau của sự mất mát khiến cho những người chết tạo thành oán khí khắp nhân gian, khiến cho người sống không thể nguôi ngoai đau khổ.

Trí tuệ bám định vào giả tướng yêu thương, sở thích:

Đó là do mắt ta nhìn thấy và đôi tai ta nghe thấy bởi giả tướng ta đang có hoặc ta không có, mà khiến cho trí tuệ ta bám định vào, bám vào để hưởng lợi ích về mình, gây tổn hại người khác.

  • Có người bám định vào việc yêu thương gia đình của mình, mải miết chăm chút cho gia đình, họ chỉ nhất nhất làm mọi thứ vì gia đình của họ mà không màng đến việc giúp đỡ và quan tâm đến mọi người xung Họ chỉ ích kỷ cho gia đình họ và coi những việc khác là của xã hội, là việc chung không cần phải quan tâm và giúp đỡ.
  • Có người đàn ông đã có gia đình, vì bám định vào người phụ nữ khác xinh đẹp hơn vợ mình, dù người phụ nữ đó có gia đình hay chưa có gia đình. Họ yêu thương mù quáng, dẫn đến ngoại tình để rồi vi phạm giá trị đạo đức, phạm vào tội thông dâm tà dâm.
  • Có người phụ nữ dù có gia đình rồi nhưng lại bám định vào người đàn ông đã có gia đình hay chưa có gia đình, vì thấy ở người đàn ông đó hơn người chồng của mình mà yêu thương mù quáng dẫn đến vi phạm giá trị đạo đức, phạm vào tội thông dâm tà dâm.
  • Có người phụ nữ chưa lập gia đình, vì bám định vào người đàn ông có gia đình mà yêu thương mù quáng dẫn đến vi phạm giá trị đạo đức là ngoại tình.
  • Có người vợ hay chồng vì bám định vào việc vợ hay chồng mình đã ngoại tình mà cũng ngoại tình để trả thù.
  • Có người bám định vào sở thích dùng những hình tướng, giả tướng, là sản phẩm hàng hiệu, sẵn sàng vay mượn để thỏa mãn sở thích đó mà không màng đến sự khó khăn hay lợi ích của vợ chồng con cái.
  • Có người bám định vào sở thích chơi bời, cờ bạc, rượu chè, dẫn đến ngạo mạn để rồi chìm đắm trong những sở thích đó mà không màng đến lợi ích của gia đình và mọi người xung quanh.

Như vậy, việc trí tuệ bám định vào yêu thương mù quáng dẫn đến hành động ngoại tình, thông dâm, tà dâm để thỏa mãn dục vọng ích kỷ của cá nhân mà gây khổ đau cho nhiều người thân và xã hội. Sở thích để thỏa mãn lợi ích ích kỷ cá nhân mà gây tổn thương hay không đem lại lợi ích cho người thân và xã hội cũng là trí tuệ u mê.

Trí tuệ bám định vào giả tướng thù ghét:

Đó là do mắt ta nhìn thấy, đôi tai ta nghe thấy bởi giả tướng nào đó, nó khiến cho trí tuệ của ta bám định vào giả tướng mà ta không thích, ta thù ghét. Trí tuệ của ta không thấy được chân tướng của sự thật, của giả tướng mà chìm đắm trong u mê để rồi vì cái ích kỷ của ta mà gây tổn thương cho mọi người.

  • Có người bám định vào việc không thích người khác ở tính cách hay điều gì đó mà nói xấu họ.
  • Có người bám định vào việc không thích những người cùng đẳng cấp mà khinh khi họ.
  • Có người bám định vào việc ai đó không thỏa mãn được sự mong mỏi và kỳ vọng của mình mà không thích hay ghét họ.
  • Có người bám định vào việc ai đó mắng mình mà sân hận rồi thù ghét họ.
  • Có người bám định vào việc ai đó ngăn cản mình làm việc gì mà sân hận rồi thù ghét họ.
  • Có người bám định vào việc bị ai đó lừa hại mình mà coi họ là kẻ thù và tìm mọi cách để trả thù họ.
  • Có người bám định vào việc ai đó đánh hay mưu hại mình hoặc người thân của mình để rồi đánh lại hay mưu hại lại nhằm thỏa mãn sự trả thù nơi thân ta.
  • Có người vì bám định vào sở ghét điều gì đó, có khi là mưa, có khi là nắng, có khi là sự bẩn thỉu, có khi là điều gì đó mà dẫn đến khó chịu, sân hận để rồi dẫn đến hành động thỏa mãn sở ghét đó mà gây tổn thương cho người khác.

Trí tuệ bám định vào giả tướng cầu không được:

Khi ta không thỏa mãn hay không có các giả tướng để thỏa mãn thì sẽ dẫn đến sinh khởi của trí tuệ mong muốn, cầu thị, nhờ vả ai đó hay thậm chí là cầu xin Thánh thần, Thượng đế để có được các giả tướng. Việc cầu để thỏa mãn giả tướng có vô số giả tướng như: cầu giàu sang, cầu có nhà cửa, cầu có xe cộ tốt hơn, cầu bình an, cầu có con trai hay cầu có con, cầu thăng quan tiến chức, cầu nên duyên vợ chồng, cầu thành công việc gì đó, người tu hành cầu pháp để có thần thông cao hơn người khác, thậm chí cầu cho người khác gặp họa để mình đạt được giả tướng mình cầu…

  • Khi ta cầu từ việc nhờ vả ai đó, làm lễ cầu xin Thần thánh, Thượng đế mà khi kết quả không được sẽ khiến cho ta thất vọng, chán nản, thậm chí sân hận và phỉ báng cả Thần thánh, Thượng đế đã không trợ giúp cho ta đạt được điều ta đang cầu. Khi đó trí tuệ bám định vào giả tướng cầu không được và vì sự ích kỷ sẽ sẵn sàng gây tổn thương đến nhiều người và xã hội.
  • Có người bám định vào việc bỏ nhiều tiền để chạy chức chạy quyền, và khi tiền mất mà không đạt được mong cầu đó dẫn đến thù ghét người mà không giúp mình.
  • Có người bám định vào việc cầu sinh được con trai mà không có dẫn đến chán nản mà đi ngoại tình để tìm người có thể sinh con trai cho người đó.
  • Có người bám định vào việc làm bao nhiêu lễ cầu xin Thần thánh, Thượng đế phù hộ cho mình giàu sang, làm ăn thành công. Khi kết quả ngày càng khiến cho nợ nần chồng chất thì người đó quay sang phỉ báng Thánh thần và Thượng đế, họ lại bám định vào việc thù ghét.
  • Người tu hành, đệ tử vì bám định vào giả tướng thần thông, pháp lực, khi cầu không được từ người thầy, họ sẵn sàng khi sư diệt tổ, hãm hại đồng môn.

Trí tuệ bám định vào giả tướng cầu được:

Khi con người cầu và đạt được sẽ khiến cho trí tuệ bám định vào giả tướng là ta đã cầu được. Khi cầu được rồi sẽ chuyển sang trí tuệ bám định vào giả tướng ta đã có, và lại tiếp tục bám định vào giả tướng mình không có để lại bám

định vào giả tướng cầu. Khi con người bám định vào giả tướng cầu được rồi sẽ khiến cho trí tuệ con người dễ ngạo mạn vào khả năng của trí tuệ, vào khả năng may mắn, vào sự mê muội trong mê tín dị đoan bởi lễ bái, dễ dàng ngạo mạn với những người cầu không được. Khi con người cầu vào các giả tướng và đạt được sự cầu đó sẽ lại khiến cho trí tuệ tiếp tục bám định vào các giả tướng để tham lam, vơ vét các giả tướng khác về cho thân tướng của họ được thỏa mãn.

Trí tuệ bám định vào giả tướng có trí tuệ:

Khi con người có bằng cấp, được sắc phong, được phong tặng, có địa vị trong xã hội, có sự giàu sang, có danh tiếng, có đức cao trọng vọng trong tôn giáo, người tu hành có thần thông pháp lực…, họ sẽ rất dễ bám định vào việc họ có trí tuệ. Họ nghĩ họ hơn người khác bởi cái giả tướng đó mà u mê khinh khi những người không có được giả tướng như họ.

  • Có người bám định vào việc mình có bằng cấp cao trong xã hội mà coi mình là tầng lớp thượng lưu có trí tuệ hơn người, khinh khi coi thường những người không có bằng cấp như mình.
  • Có người bám định vào việc mình đọc nhiều kinh văn hơn người khác mà cho rằng mình là bậc trí tuệ. Họ đọc nhiều mà không phân biệt được lý luận đó có đúng với quy luật tự nhiên không, có mang lại được lợi ích cho mọi người không, họ bám định vào mà u mê.
  • Có người bám định vào việc mình giàu sang mà coi mình có trí tuệ hơn người, dẫn đến khinh khi coi thường những người không giàu có như họ.
  • Có người bám định vào việc mình có thần thông pháp lực, có khả năng về tâm Họ coi họ là bậc trí tuệ hơn người, sẵn sàng dẫn dụ lừa mọi người để trục lợi, họ tạo ra sự huyền bí và biến thành mê tín dị đoan khiến cho nhiều người khổ đau.
  • Có người bám định vào việc có chức có quyền, mà miệt thị hay khinh khi người nông dân và các tầng lớp xã hội thấp khác.

Họ u mê khi trí tuệ của họ bám định vào bằng cấp, bám định vào giàu sang phú quý, bám định vào địa vị, bám định vào chức vụ trong tôn giáo mà không hiểu rằng sự hiểu biết của họ cũng chỉ giới hạn trong phạm vi lĩnh vực và công việc chuyên môn. Họ không hiểu bậc trí tuệ giác ngộ là phải thấu hiểu hết tất cả Vũ trụ quan trong và ngoài Vũ trụ. Vì họ bám định nên họ u mê mà coi họ là bậc trí tuệ, họ sẵn sàng vì lợi ích của họ mà gây tổn hại lợi ích của mọi người và xã hội.

Trí tuệ bám định vào giả tướng không có trí tuệ:

Những người không được học hành nhiều, không có bằng cấp, không có địa vị, không giàu sang, không có chức sắc gì trong tôn giáo, họ là những người lao động ít học. Trí tuệ của họ luôn bám định vào việc họ không có trí tuệ bằng người khác.

  • Có người bám định vào việc trí tuệ họ không có học hành và không có bằng cấp nên họ tự ti và sợ hãi khi giao tiếp với những người có bằng cấp, với những người giàu sang và có địa vị.
  • Có người bám định vào việc mình không có trí tuệ

thấu hiểu tâm linh nên dễ dàng bị những người dùng tâm linh để lừa hại và chiếm đoạt tiền của dựa trên tín ngưỡng tâm linh và niềm tin tôn giáo.

Dù bám định vào có trí tuệ hay không có trí tuệ thì đều là trí tuệ u mê. U mê ở sự bám định vào mà không hiểu rằng con người có sự bình đẳng, không có sự phân chia giai cấp, mỗi con người tồn tại hiện kiếp đều có sự hiểu biết ở các lĩnh vực khác nhau, mỗi kiếp người đều sẽ trải qua các thân tướng khác nhau. Do đó không thể đem sự hiểu biết ở lĩnh vực này đi nói là ta có trí tuệ hơn người hiểu biết ở lĩnh vực khác, không thể so sánh giữa mọi người, sự so sánh khập khiễng như vậy sẽ dẫn đến sự u mê của sự ngạo mạn hay tự ti.

Trí tuệ bám định vào giả tướng hành động:

Khi chúng ta đã bám định vào các giả tướng như có, không có, yêu thương, thù ghét, cầu được, cầu không được, có trí tuệ, không có trí tuệ, thì sẽ dẫn đến việc trí tuệ của chúng ta lại bám định vào giả tướng hành động. Vì trí tuệ đã u mê bám định vào các giả tướng để thỏa mãn lợi ích của mình nên họ sẽ sẵn sàng hành động tạo ác nghiệp hại người và vạn vật.

  • Có người bám định vào việc yêu thương người con gái khác khi đã có vợ con, họ sẽ hành động quan hệ ngoại tình với người con gái đó, như thế là ác nghiệp đã tạo.
  • Có người bám định vào có chức có quyền, họ bám định vào người hối lộ nhiều tiền thì mới giúp, và tiếp đến họ hành động giúp thăng quan tiến chức cho người đó, như thế nghiệp ác đã tạo.
  • Có người bám định vào việc không có nhiều tiền mà dẫn đến hành động buôn bán, làm ăn vi phạm pháp luật, nghiệp ác đã tạo.
  • Có người bám định vào việc mình có chức sắc trong tôn giáo hoặc được gọi là thầy tâm linh mà dẫn đến hành động lợi dụng tâm linh, tôn giáo để trục lợi hại người, nghiệp ác đã tạo.

Như vậy trí tuệ bám định vào hành động là hành động tạo ra nghiệp ác để thỏa mãn và đạt được lợi ích về mình mà gây tổn thương cho người khác và xã hội.

Trí tuệ bám định vào giả tướng không hành động:

Khi chúng ta đã bám định vào các giả tướng như có, không có, yêu thương, thù ghét, cầu được, cầu không được, có trí tuệ, không có trí tuệ, thì sẽ dẫn đến việc trí tuệ của chúng ta lại bám định vào giả tướng không hành động. Đó là vì lợi ích ích kỷ của mình mà không hành động giúp đỡ mọi người, xã hội.

  • Có người bám định vào trí tuệ mà coi mình là cao sang và thượng lưu, khi gặp người nghèo khó nhờ giúp, họ bám định vào mà không giúp đỡ.
  • Có người bám định vào có và yêu thương gia đình, họ chỉ chăm chăm lo toan cho gia đình họ mà không hành động giúp đỡ người khác.
  • Có người bám định vào chức sắc trong tôn giáo, vị thế trong tâm linh, họ bám định vào cao sang và trí tuệ nên họ không giúp đỡ những người nghèo khó đến nhờ.
  • Có người bám định vào việc mình chưa đủ trí tuệ giác ngộ, chưa đủ sức lực nên không hành động giúp người gặp nạn hay gặp khó khăn khổ đau.

Vì 10 giả tướng đều là màn đêm tối mịt mù nên khi con người chúng ta bám định vào một giả tướng nào thì hình ảnh như ta đang sống giữa đêm tối mịt mù đó. Khi đó ta sẽ không phân biệt được thật giả trong đêm tối, ta sẽ không biết đâu là đúng và đâu là sai, ta không nhận biết được hiểm nguy trong màn đêm tối đó. Từ việc bám định vào một giả tướng sẽ dẫn đến bám định vào hết tất cả các giả tướng khác mà hành động hay không hành động, đó là vì sự ích kỷ cá nhân mà gây tổn thương cho người khác.

6.2.  Trí Tuệ giác ngộ

Trí tuệ giác ngộ là trí tuệ không bị bám định vào giả tướng, đó là trí tuệ thấu hiểu và biết chuyển hóa giá trị lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Để có được trí tuệ giác ngộ thì mỗi con người phải thấu hiểu và luôn luôn dùng hai Chân lý (Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ) để tham chiếu, soi thấu, thấy chân tướng của tất cả các giả tướng là do duyên sinh và do duyên diệt, là Nhân quả, để rồi chuyển hóa các giả tướng đó thành lợi ích cho Tuệ linh, con người mà không màng gì đến lợi ích cá nhân ta.

Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ như là mặt trời tỏa ánh sáng hào quang rực rỡ, khi chiếu vào màn đêm tối mịt mù của giả tướng nào thì sẽ xua tan sự giả dối của u mê của giả tướng đó. Hai Chân lý sẽ phơi bày sự thật cho Vũ trụ, Tuệ linh và con người thấu hiểu sự thật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Mặt trời của hai Chân lý chiếu đến tất cả các giả tướng thì tất cả màn đêm giả dối của giả tướng đó sẽ bị xua tan và sự thật sẽ hiện hữu. Khi thấu hiểu hết sự thật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người thì đó là trí tuệ giác ngộ.

Những biểu hiện của Trí tuệ giác ngộ:

Trí tuệ không bám định vào giả tướng có:

Khi trí tuệ thấu hiểu Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, đó chính là ánh sáng mặt trời soi thấu vào trong giả tướng có. Do đó sẽ thấy sự thật của giả tướng có. Ta tham chiếu vào giả tướng có để chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người và cho chúng sinh, đó chính là trí tuệ giác ngộ ở giả tướng có.

  • Có người giàu có, họ không bám định vào việc họ giàu có mà coi thường người không giàu có. Khi họ thấu hiểu Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, họ không ích kỷ cho bản thân họ. Họ tham chiếu vào điều kiện mà họ có để chuyển hóa thành lợi ích cho cộng đồng xã hội, cứu giúp dân chúng vùng nghèo đói, vùng thiên tai dịch bệnh. Đó là trí tuệ giác ngộ đã có để lan tỏa tình yêu thương nhân loại.
  • Có người có địa vị, có chức có quyền, họ thấu hiểu được Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ. Họ không bám định vào đó mà phân biệt cao sang hay địa vị, họ không lạm dụng quyền lực để tham ô tham nhũng. Họ tham chiếu vào địa vị quyền lực họ đang có mà giúp đỡ những nhân tài vào các vị trí đúng với năng lực của họ và mang lại nhiều lợi ích cho Đất nước, đó là trí tuệ giác ngộ.
  • Có người có địa vị chức sắc trong tôn giáo, họ không bám định vào đó mà khinh khi không tiếp những người nghèo. Khi họ thấu hiểu hai Chân lý, họ sẽ thương yêu và giúp đỡ tất cả mọi người mà không phân biệt người đến nhờ là người giàu hay nghèo, đó là trí tuệ giác ngộ.
  • Có người có gia đình với cuộc sống hạnh phúc. Khi họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào sự chăm chăm chỉ lo cho gia đình mình. Họ tham chiếu vào cuộc sống mình đang có để đi chia sẻ, giúp đỡ những người khác vượt qua khó khăn khổ đau, đó là trí tuệ giác ngộ.
  • Có người giàu có, họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào việc thỏa mãn sự giàu có đó để hưởng lợi ích. Khi họ thấu hiểu hai Chân lý, họ tham chiếu vào điều kiện họ có để kinh doanh hay tạo ra sản phẩm có lợi ích cho người dân mà không màng gì đến lợi ích cá nhân mình, đó là trí tuệ giác ngộ.
  • Có người có cuộc sống gia đình không hạnh phúc. Họ thấu hiểu hai Chân lý, họ tham chiếu vào cuộc sống của mình mà không bám định vào giả tướng bên ngoài để dẫn đến gia đình ly tán. Họ vun vén và xây dựng cuộc sống gia đình tốt đẹp hơn, đó là giác ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng

không có:

Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi thấu bản chất của giả tướng không có, tham chiếu vào nó mà chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người và chúng sinh. Đó là trí tuệ giác ngộ giả tướng không có.

  • Có người không giàu có, họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào việc phải giàu có bằng mọi cách mà gây tổn hại cho mọi người. Họ lao động chân chính, cố gắng cải tạo cuộc sống tốt đẹp hơn và mang lại được nhiều lợi ích cho mọi người, đó là giác ngộ.
  • Có người không có địa vị cao, họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào việc không có địa vị cao mà chạy chức chạy quyền hay tham ô tham nhũng. Họ cố gắng cống hiến hết mình cho Đất nước bằng trí tuệ không ngừng học tập trau dồi, đó là giác ngộ.
  • Có người không bám định vào việc không có chức sắc trong tôn giáo, họ thấu hiểu hai Chân lý, họ luôn luôn giúp đỡ tất cả mọi người mà không màng đến địa vị chức sắc, đó là giác ngộ.
  • Có người không bám định vào việc hơn thua với bạn đồng môn hay thầy dạy. Họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không màng đến sự cao thấp hơn thua mà luôn sống đúng đạo thầy trò, không ngừng hành thiện giúp đỡ mọi người, đó là giác ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng yêu thương, sở thích:

Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi thấu giả tướng yêu thương, sở thích, từ đó tham chiếu và chuyển hóa giả tướng đó thành lợi ích cho mọi người và chúng sinh. Đó là trí tuệ giác ngộ vào giả tướng yêu thương, sở thích.

  • Có người con gái xinh đẹp, họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không dùng sắc đẹp đó để đi yêu thương người có gia đình hoặc tà dâm mà vi phạm luật Nhân quả. Họ tham chiếu vào thân tướng họ mà chuyển hóa thành lao động chân chính, yêu thương chân chính, tuân thủ luật pháp quốc gia và luật Nhân quả để đem lại hạnh phúc cho chính mình và mọi người khác. Đó là giác ngộ.
  • Có người khi đã có gia đình, cuộc sống vợ chồng không được viên mãn. Họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào đó mà đi yêu thương ngoại tình, thông dâm. Họ cùng vợ chồng vun vén và xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn và không ảnh hưởng đến hạnh phúc của người khác, đó là giác ngộ.
  • Có người thích cờ bạc, ăn chơi, mua sắm phung phí. Khi họ thấu hiểu hai Chân lý, họ sẽ không bám định vào sở thích đó. Họ chuyển hóa thành lao động chân chính, lo lắng cho mọi người xung quanh, cải tạo cuộc sống tốt đẹp hơn, đó là giác ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng thù

ghét:

Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi thấu giả tướng thù ghét, tham chiếu và chuyển hóa nó thành lợi ích cho mọi người, đó là trí tuệ giác ngộ ở giả tướng thù ghét.

  • Có người sân hận người nào đó đã làm cho mình tổn thương, khi thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào thù ghét người đó nữa. Họ an vui và mang lại lợi ích cho mọi người và chính người mà họ đã thù ghét, đó là giác ngộ.
  • Có người nào đó khi không thỏa mãn được các giả tướng nên thù ghét và sân hận với người mà không cho mình được thỏa mãn. Khi họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không còn bám định vào giả tướng đó. Họ tham chiếu và chuyển hóa để mang lại lợi ích cho mọi người và chính người mà mình đang thù hận, đó là giác ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng cầu được hay cầu không được:

Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi thấu giả tướng cầu là không có, để mọi người không còn bám định vào cầu. Khi đó mọi người hăng say lao động sản xuất, lao động chân chính, tu tập chân chính, cố gắng cải tạo cuộc sống tốt đẹp hơn và mang lại lợi ích cho mọi người khác. Đó là giác ngộ vào giả tướng cầu.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng có trí tuệ:

Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi thấu giả tướng có trí tuệ, tham chiếu vào nó để chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người. Đó là trí tuệ giác ngộ vào giả tướng có trí tuệ.

  • Có người có chức có quyền, có học hàm học vị Họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào việc họ có bằng cấp hay địa vị. Họ luôn luôn giúp đỡ mọi người, giúp đỡ những người nghèo, họ quan tâm đến lợi ích của chúng sinh, đó là giác ngộ.
  • Có người có chức sắc trong tôn giáo, thấu hiểu về tâm linh. Khi thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào đó, họ không lừa người để trục lợi. Họ quan tâm và giúp đỡ mọi người mà không phân biệt, đó là giác ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng

không có trí tuệ:

Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi thấu giả tướng không có trí tuệ, tham chiếu vào nó để cố gắng không ngừng cải tạo trau dồi trí tuệ và chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người, đó là trí tuệ giác ngộ.

  • Có người nông dân, họ không có bằng cấp, không có địa vị. Khi họ thấu hiểu hai Chân lý, họ tham chiếu và thuyết giảng hai Chân lý cho mọi người khác cùng thấu hiểu. Họ không ngại ngùng hay tự ti mà đi thuyết giảng, họ chuyển hóa thành lợi ích cho nhiều người, đó là giác ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng hành động:

Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi thấu giả tướng hành động, tham chiếu vào hành động để mang lại lợi ích cho mọi người. Đó là giác ngộ vào hành động.

  • Có người do thấu hiểu hai Chân lý nên tham chiếu vào các giả tướng mình giàu có để chuyển hóa thành hành động là làm từ thiện giúp đỡ người nghèo và dân chúng vùng thiên tai lũ lụt. Đó là trí tuệ giác ngộ.
  • Có người có chức có quyền, do thấu hiểu hai Chân lý, họ tham chiếu vào giả tướng mình có chức có quyền mà chuyển hóa thành hành động để giúp đỡ các nhân tài vào các vị trí phù hợp, giúp đỡ dân tộc Đất nước cường thịnh, đó là giác ngộ.

Người thấu hiểu hai Chân lý, họ luôn luôn gieo duyên để chuyển hóa thành hành động giúp đỡ mọi người thấu hiểu hai Chân lý và vượt qua u mê để có trí tuệ giác ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng không hành động:

Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi thấu giả tướng không hành động. Đó là không hành động tạo nghiệp gây tổn thương đến mọi người, không hành động vi phạm pháp luật quốc gia nơi mình sinh sống, không hành động vi phạm luật Nhân quả, đó là giác ngộ vào giả tướng không hành động.

  • Có người không bám định vào việc mình nghèo, không bám định vào việc cầu dẫn đến không hành động làm giàu bằng mọi cách mà vi phạm pháp luật hay vi phạm đạo đức con người. Do họ thấu hiểu hai Chân lý nên họ lao động chân chính để cải tạo cuộc sống và mang lại lợi ích cho mọi người và xã hội, đó là giác ngộ.
  • Có người có địa vị quyền chức, họ thấu hiểu hai Chân lý nên họ không hành động giúp đỡ những người nhiều tiền không có tài, không có đức, chạy chức chạy quyền. Họ không hành động để mang lại lợi ích cho dân tộc, cho Đất nước, đó là giác ngộ.
  • Có người có chức sắc trong tôn giáo, họ không bám định vào việc có địa vị, họ không bám định vào việc không có nhiều tiền. Họ thấu hiểu hai Chân lý, họ chuyển hóa thành không hành động tạo ra mê tín dị đoan, không hành động lừa hại mọi người. Họ chuyển hóa thành hành động giúp đỡ mọi người bài trừ mê tín dị đoan, đó là giác ngộ.

6.3.  Căn cơ Trí tuệ

Bản chất của trí tuệ là u mê là do bám định vào giả tướng và có được trí tuệ giác ngộ khi thấu hiểu hai Chân lý và chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người và chúng sinh, Tuệ linh, con người. Để từ cảnh giới của trí tuệ u mê tiến đến cảnh giới của trí tuệ giác ngộ viên mãn cũng là khoảng cách, khoảng cách này có thể chia ra làm 4 nấc thang để đo căn cơ của mỗi người, Tuệ linh có nghị lực vượt qua từng nấc thang. Thông qua 4 căn cơ này để cho con người dễ dàng nhận thấy mình hay ai đó đang ở căn cơ nào mà dễ dàng vận dụng hai Chân lý tiếp tục chuyển hóa mình và mọi người đạt được trí tuệ giác ngộ viên mãn.

Bản chất của thang đo căn cơ trí tuệ chính là việc trí tuệ của mỗi Tuệ linh, con người giải mã, mã hóa được lượng mã sóng trí tuệ của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ ở mức từ đơn giản tới siêu trí tuệ, từ nhỏ nhất cho tới bao trùm trong và ngoài Vũ trụ. Muốn gia tăng được khả năng giải mã, mã hóa các mã sóng trí tuệ của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người, thì cần sự trải nghiệm khổ đau, kiếp nạn đủ lớn và cực đại, thậm chí là phải tột cùng trong nhiều kiếp tu hành ở nhân gian.

Căn cơ trí tuệ giác ngộ thấp:

  • Người có căn cơ trí tuệ giác ngộ thấp là người không thấu hiểu và không tin về sự thật cội nguồn nhân loại, về sứ mệnh tu hành ở nhân gian, không thấu hiểu vạn vật và hai Chân lý, không tin Quy luật Nhân quả. Họ mải mê và đắm chìm trong việc bám định và vơ vét các giả tướng về nơi thân họ để hưởng thụ. Người có căn cơ thấp thường là chưa trải qua khổ đau nên chưa tin vào nhân quả nghiệp báo. Họ chỉ

 

tin vào trí tuệ mà họ bám định, tin và đắm chìm trong giả tướng họ có, họ đắm chìm trong mưu cầu, đắm chìm trong tất cả các giả tướng.

  • Hình ảnh người có căn cơ trí tuệ giác ngộ thấp là hình ảnh một người lặn ngụp dưới đáy dòng sông. Vì dưới đáy dòng sông có nhiều cát bụi nên họ nhắm mắt để hưởng thụ sự mát mẻ của phù du giả tướng, họ không nhận biết được sự nguy hiểm dưới đáy dòng sông. Họ tự hào vào việc họ thấy và cảm thấy thỏa mãn hay chưa thỏa mãn vào các phù du giả tướng mà vẫn đắm chìm trong các giả tướng. Họ không màng đến ánh sáng của hai Chân lý.
  • Họ sẽ chuyển hóa căn cơ trí tuệ lên cao hơn khi có thủy quái tấn công họ. Khi đó, họ chợt nhận ra, họ hoảng hốt vì bị tổn thương và lo sợ sẽ chết dưới đáy dòng sông nên họ phải ngoi mình lên mặt nước và đầu họ không còn dưới đáy sông nữa.
  • Những người căn cơ trí tuệ giác ngộ thấp sẽ phải tiếp tục trải qua vô số kiếp nạn khổ đau và sẽ cải tạo Trụ linh thành công vào nhiều đời sau. Tức là những người có căn cơ trí tuệ giác ngộ thấp phải gặp nhiều khổ đau kiếp nạn đến và nhận ra khổ đau thì họ mới chuyển hóa căn cơ lên căn cơ trí tuệ giác ngộ trung bình và các căn cơ cao hơn.

Căn cơ trí tuệ giác ngộ trung bình:

  • Những người này họ bán tín bán nghi, nửa tin nửa nghi ngờ về cội nguồn nhân loại, về sứ mệnh tu hành ở nhân gian, về Quy luật Nhân quả, về quả báo, về hai Chân lý. Họ đã trải qua ít nhiều khổ đau rồi, họ vẫn mải mê chìm đắm trong phù du giả tướng, vẫn muốn vơ vét và bám định vào các giả tướng.
  • Hình ảnh tượng trưng cho người có căn cơ trí tuệ giác ngộ trung bình là một người đằm mình dưới dòng sông, đầu và mặt người đó đã ngoi lên trên mặt nước, mặt họ đã nhìn thấy Mặt trời và ánh sáng mặt trời của hai Chân lý. Tuy nhiên, họ vẫn còn đắm chìm hay chưa thỏa mãn bởi phù du giả tướng như dòng nước mát mà không đi lên bờ. Họ không sợ vi phạm Quy luật Nhân quả nên họ chưa đi theo ánh sáng của hai Chân lý. Họ chỉ hoảng sợ và sợ chết khi có con thủy quái cắn vào thân họ đang chìm trong dòng nước mà chạy lên bờ.
  • Họ cũng từng trải qua khổ đau, nhưng phải đến khi chịu nhiều khổ đau kiếp nạn đến, họ mới tin là việc đằm mình trong u mê của giả tướng sẽ khiến họ chịu quả báo và cái chết. Lúc đó họ sẽ tin nhân quả và sự an toàn nơi ánh sáng mặt trời của hai Chân lý mà đi theo lên bờ sông. Những người căn cơ trí tuệ giác ngộ trung bình sẽ phải luân hồi trong nhiều kiếp và sớm cải tạo Trụ linh thành công trong các đời sau khi khổ đau kiếp nạn đến nhiều với họ. Hình ảnh họ đang đi lên bờ sông là hình ảnh chuyển hóa thành căn cơ trí tuệ giác ngộ khá.

Căn cơ trí tuệ giác ngộ khá:

  • Những người này họ hoàn toàn tin nhân quả, tin cội nguồn nhân loại, tin sứ mệnh tu hành ở nhân gian, họ đã trải qua nhiều khổ đau rồi. Họ đang từng bước rời bỏ sự bám định vào các giả tướng và từng bước chuyển hóa thành lợi ích cho chúng sinh để hướng đến ánh sáng mặt trời của hai Chân lý.
  • Hình ảnh người có căn cơ trí tuệ giác ngộ khá là một người đang đi từ dưới dòng sông sâu lên bờ, họ đang đi và hướng về ánh sáng mặt trời của hai Chân lý. Khi lên bờ gặp hai Chân lý thì họ sẽ cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn tại hiện kiếp. Tuy nhiên vì họ vẫn còn nuối tiếc phù du giả tướng như dòng nước mát nên họ còn chậm chạp trong việc bước đến với ánh sáng chân lý.
  • Để họ chuyển hóa lên căn cơ trí tuệ giác ngộ nhanh, chỉ cần có thêm vài khổ đau hiện hữu với họ thì họ sẽ đẩy nhanh tốc độ rời xa khỏi u mê mà chuyển hóa thành căn cơ trí tuệ giác ngộ cao để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Căn cơ trí tuệ giác ngộ cao:

  • Là những người đã có niềm tin tuyệt đối vào cội nguồn của nhân loại, tin vào nhân quả, tin vào sứ mệnh tu hành ở nhân gian. Họ đã trải qua hết các kiếp nạn khổ đau trong nhiều đời nhiều kiếp. Họ không còn u mê chìm đắm trong sự bám định về các giả tướng. Họ biết chuyển hóa các giả tướng đó thành lợi ích cho mọi người, họ có tình yêu thương bao la cho nhân loại và muôn loài.
  • Hình ảnh người có căn cơ trí tuệ giác ngộ cao là hình ảnh một người đã đứng trên bờ sông, đứng dưới ánh sáng mặt trời của hai Chân lý. Họ quan sát được thế giới quan xung quanh, thấy sự thật của tất cả các giả tướng, họ an lạc tự tại nơi thân tâm.
  • Những người này chỉ cần gặp ánh sáng của hai Chân lý và thực hành cải tạo Trụ linh sẽ chuyển sinh thành bộ lọc năng lượng ngay.

Các Tuệ linh đã trải nghiệm vô số kiếp tu hành ở nhân gian với vô số các kiếp nạn khổ đau, an vui hạnh phúc trong tất cả các kịch bản và môi trường tương tác. Điều này đã giúp cho dạng sống Tuệ linh bộc phát được hết bản chất Trụ – Trí trong Trụ linh của họ. Hai Chân lý chính là tri thức để phân tích tất cả bản chất Trụ – Trí của Tuệ linh và con người. Thông qua hai Chân lý sẽ xây dựng được phương pháp tuyệt vời nhất để Tuệ linh và con người chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất. Đó là đi trên con đường giác ngộ để đạt được Kết – Định – Tỏa trong Trụ linh.

7.    Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) Kết của 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ

Việc giải mã, thấu hiểu bản chất Trụ – Trí Kết của 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ sẽ giúp cho Tuệ linh và con người dễ dàng mã hóa thông tin sự thật của vạn vật vào trong Trụ linh. Khi đó, sẽ biết cách kiểm soát được độc của hạt năng lượng âm và kích hoạt được thiện của hạt năng lượng dương bằng chân tâm. Làm được sẽ tiến nhanh tới thành tựu chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

 

7.1.   Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) Kết của 3 nhóm vật chất

Kết là rung động, là bắt tín hiệu, là thu tín hiệu, là hút về, là lấy về, là hưởng thụ, là chìm đắm, là chiếm đoạt, là cướp bóc, là thỏa mãn, là giết hại, là gây tổn hại tới vạn vật.

Kết có bản chất là sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm. Bởi sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm mới rung động, mới bắt tín hiệu, mới thu tín hiệu, mới hút về, mới lấy về, mới hưởng thụ, mới chìm đắm, mới chiếm đoạt, mới cướp bóc, mới thỏa mãn, mới giết hại, mới gây tổn hại.

Kết ở mức nhẹ là chỉ rung động, thu hút tín hiệu. Kết ở mức rất mạnh là giết hại, thỏa mãn mà gây tổn hại tới các chỉnh thể khác.

Trong bất cứ cấu trúc Trí tuệ nào được hình thành từ sự hợp nhất của sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và dương đều có Kết. Bởi khi Trụ linh của Tướng được hình thành từ hai sợi mã sóng trí tuệ đã có một sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm. Mà bản chất của sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm là Kết. Điều này cho thấy, hết thảy các cấu trúc Trí tuệ (trừ các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương và sóng điện trung tính) đều có bản chất là Kết. Có chăng mức độ Kết ở mức siêu nhẹ hay nhẹ, mạnh hay siêu mạnh.

Kết tồn tại trong cả 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ. Ba nhóm cấu trúc Trí tuệ tương ứng với 3 nhóm Tướng (vật chất). Đó là nhóm cấu trúc trí tuệ giản đơn, nhóm cấu trúc Trí tuệ phức tạp, nhóm cấu trúc siêu Trí tuệ.

Kết là bản chất mà bất cứ cấu trúc Trí tuệ nào muốn phát triển và nâng cấp phải có. Bởi chỉ khi có Kết thì hết thảy các cấu trúc Trí tuệ trong Vũ trụ mới hấp thụ nhiệt lượng, hấp thụ dinh dưỡng, hấp thụ sóng điện để thực hiện được cơ chế phân tách và liên kết nhằm tồn tại, phát triển bền vững hơn.

Kết ở mức độ nhẹ và vừa đủ sẽ thúc đẩy được sự phát triển bền vững của cấu trúc Trí tuệ và mang lại lợi ích tới hết thảy các Tướng khác trong Vũ trụ. Kết ở mức độ mạnh, rất mạnh và siêu mạnh sẽ khiến cho cấu trúc Trí tuệ không phát triển được mà dễ dàng bị năng lượng hoại diệt gây phân rã làm vỡ cấu trúc, hoại diệt vĩnh viễn và gây tổn hại tới hết thảy các Tướng trong Vũ trụ.

Có 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ Kết dễ bị phân rã và hoại diệt. Đó là 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ Kết từ mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh:

  • Nhóm cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh là nhóm cấu trúc Trí tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm màu xám với một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương bất kỳ, gọi là Trụ linh đa âm mạnh. Do sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm rung lắc mạnh, quay ngược mạnh, hút sóng điện bên ngoài về mạnh nên cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh.
  • Nhóm cấu trúc Trí tuệ Kết rất mạnh là nhóm cấu trúc Trí tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm màu đen với một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương bất kỳ, gọi là Trụ linh đa âm rất mạnh. Do sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm rung lắc rất mạnh, quay ngược rất mạnh, hút sóng điện bên ngoài về rất mạnh nên cấu trúc Trí tuệ Kết rất mạnh.
  • Nhóm cấu trúc Trí tuệ Kết siêu mạnh là nhóm cấu trúc Trí tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm màu đỏ máu với một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương bất kỳ, gọi là Trụ linh đa âm siêu mạnh. Do sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm rung lắc siêu mạnh, quay ngược siêu mạnh, hút sóng điện bên ngoài về siêu mạnh nên cấu trúc Trí tuệ Kết siêu mạnh.

Các cấu trúc Trí tuệ có bản chất Kết từ cấu trúc hạt năng lượng tận cùng cho tới cấu trúc Trụ linh, cho tới cấu trúc Tướng (Tuệ linh, con người, muông thú, hành tinh, thiên hà, Vũ trụ) ở mức mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh, đó là các cấu trúc Trí tuệ đa âm. Khi đa âm, tức là lượng sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm được phân tách ra vô số mà không cấu tạo được thành liên kết vững chắc như những sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương. Việc không tạo được sự liên kết chặt chẽ trong cấu trúc tổng hòa các sợi mã sóng trí tuệ sẽ làm cho cấu trúc Trí tuệ không có khả năng phòng thủ trước sự tấn công của năng lượng hoại diệt. Khi năng lượng hoại diệt tấn công sẽ làm cho cấu trúc Trí tuệ đó bị đứt liên kết, bị phân rã và hoại diệt vĩnh viễn.

Khi các cấu trúc Trí tuệ Kết tương tác với nhau sẽ dễ dàng tạo thành hiệu ứng Kết liên kết với Kết. Đây chính là hội chứng liên kết phóng xạ âm của các cấu trúc Trí tuệ có bản chất Kết. Khi hội chứng liên kết phóng xạ âm xảy ra giữa các cấu trúc Trí tuệ, các cấu trúc Trí tuệ sẽ rung lắc mạnh, thu hút mạnh, quay ngược mạnh. Điều đó khiến cho năng lượng hoại diệt sẽ tấn công vào rất mạnh. Khi đó, các cấu trúc Kết này nhanh chóng bị phân rã và hoại diệt. Có thể nói, khi các cấu trúc Trí tuệ Kết tương tác với nhau sẽ gây tổn hại lớn cho chính cấu trúc Trí tuệ của chính nó và các cấu trúc Trí tuệ khác.

7.2.   Các cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Kết của 3 nhóm vật chất

Các cấu trúc Trí tuệ Kết ở mức mạnh, rất mạnh và siêu mạnh có trong 3 nhóm vật chất là:

Các cấu trúc Trụ – Trí Kết trong nhóm siêu vật chất:

Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là dạng sống Tuệ linh. Đó là dạng sống Tuệ linh và Linh hồn đã từng hoặc đang an trụ trong thân tướng con người.

Siêu Tướng có cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất mạnh và siêu mạnh là:

  • Hạt năng lượng âm tận cùng màu xám, màu đen, màu đỏ máu có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp.
  • Tuệ linh bị đa âm, bị phóng xạ năng lượng âm.
  • Tuệ linh đã hóa thành ngã quỷ sau quá trình tu hành ở nhân gian.
  • Tuệ linh, Linh hồn đang phân rã và tiệm cận sự hoại diệt. Đó là họ đang rung động, hút, chiếm hữu, gây tổn hại tới các chỉnh thể khác mà không thể kiểm soát được chính họ.
  • Tuệ linh, Linh hồn đang ở các cửa ngục ác nghiệp ở cõi trời Địa phủ.
  • Tuệ linh, Linh hồn đang ở cảnh sống âm tại cõi trời Địa phủ.
  • Tuệ linh, Linh hồn hóa ngã quỷ đang an trụ trong không gian Vũ trụ.
  • Tuệ linh, Linh hồn hóa ngã quỷ đang an trụ ở khắp điền thổ, những nơi thờ tự ở nhân gian.
  • Tuệ linh, Linh hồn đang bị mắc kẹt ở nhân gian sau khi hết kiếp người mà chưa được chuyển sinh luân hồi kiếp mới.
  • Tuệ linh đang an trụ trong con người có tư tưởng cho đến hành động tiêu cực gây tổn hại vạn vật, Tuệ linh và người. Là người vi phạm vào bốn hình tướng Đạo, đó là vi phạm vào những điều không được phép vi phạm trong bốn hình tướng Đạo. Đặc biệt là những con người có đại hệ tư tưởng u mê, tiêu cực gây tổn hại Tuệ linh, con người. Họ là những người lan tỏa mê tín dị đoan, lan tỏa tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, lan tỏa chiến tranh, lan tỏa những tư tưởng đi ngược Quy luật Nhân quả.

Các siêu Tướng có cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất mạnh và siêu mạnh sẽ khiến cho cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng được phân tách ra bên ngoài Trụ linh bị mất cân bằng. Khi đó, các hạt năng lượng âm sẽ được phân tách ra quá nhiều, trong khi các hạt năng lượng dương lại quá ít. Khi mất cân bằng sẽ khiến tốc độ rung lắc trong các sợi mã sóng trí tuệ của các hạt năng lượng âm rất lớn. Năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu, chúng di chuyển vào làm đồng hóa, phân rã và hoại diệt cấu trúc Trí tuệ đó. Cấu trúc Trí tuệ chính là cấu trúc năng lượng, cũng chính là cấu trúc Tướng.

Các cấu trúc Trụ – Trí Kết trong nhóm vật chất phức tạp:

Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.

Tướng phức tạp có cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất mạnh và siêu mạnh là:

  • Những tầng năng lượng tiêu cực có sóng điện âm màu xám, màu đen, màu đỏ máu. Đó là những tầng năng lượng sóng điện âm vận hành Vũ trụ.
  • Những linh hồn các con thú dữ. Sau khi hoại diệt thân xác, linh hồn chúng tồn tại trên điền thổ và chúng gây tổn hại tới đời sống của con người. Chúng được gọi là yêu tinh, yêu quái.
  • Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đất đá, trong những cây có tính chất độc tố. Đó là những cây cối, những đất đá gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống của con người và vạn vật cũng như muông thú.

Các Tướng phức tạp có cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất mạnh và siêu mạnh sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu. Chúng di chuyển ồ ạt vào làm đồng hóa, phân rã và hoại diệt các cấu trúc Trí tuệ. Cấu trúc Trí tuệ chính là cấu trúc năng lượng, cũng chính là cấu trúc Tướng.

Các cấu trúc Trụ – Trí Kết trong nhóm vật chất giản đơn:

Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là dạng sống của thân tướng vật chất rắn, lỏng, khí; là thân tướng con người, thân tướng muông thú, thân tướng cỏ cây, đất đá, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ Vũ trụ.

Tướng giản đơn có cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất mạnh và siêu mạnh là:

  • Thân tướng con người:

+ Những con người có thân bệnh. Thân bệnh là năng lượng âm quá nhiều, dư thừa, khiến cho sóng điện âm dương trong cơ thể không tuần hoàn. Khi đó, năng lượng hoại diệt xâm nhập làm biến đổi cấu trúc tế bào và gây ra những bệnh lý hiểm nghèo.

+ Những con người có trí tuệ bám định, u mê không tin vào Quy luật Nhân quả, vào cội nguồn nhân loại, vào con đường và sứ mệnh tu hành cải tạo Trụ linh.

+ Những con người có trí tuệ bám định vào các giả tướng mà không hành thiện cứu giúp con người, vạn vật và muông thú.

 

+ Những con người có những hành động gây tổn hại tới vạn vật, con người, muông thú để thỏa mãn cho bản thể họ.

+ Những con người có đại hệ tư tưởng tiêu cực đi ngược lại Quy luật Nhân quả.

+ Những con người sống và lan tỏa những đại hệ tư tưởng: u mê, mê tín dị đoan, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tôn giáo cực đoan, phân chia dân tộc, phân chia sắc tộc, chiến tranh…

+ Những con người sống và thực hành, lan tỏa vi phạm bốn hình tướng Đạo.

  • Thân tướng muông thú: Đó là những con thú ăn thịt đồng loại, những con thú ăn thịt các con thú khác, những con thú không cứu giúp và bảo vệ đồng loại của chúng. Những con thú không cứu giúp muông thú khác, không giúp đỡ con người, không cứu giúp vạn vật.
  • Những cỏ cây hút nước, hút dinh dưỡng để tồn tại và phát triển.
  • Những hang sâu trong lòng đất núi. Những vật chất đá không sinh phát ra năng lượng tốt cho vạn vật. Những kim loại, hóa chất, chất độc trong thiên nhiên, trong lòng đất.
  • Nước trung hòa tất cả vạn vật.
  • Những hành tinh có đa sóng điện âm mạnh.

8.    Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) Định của 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ

Việc giải mã, thấu hiểu bản chất Trụ – Trí Định của 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ sẽ giúp cho Tuệ linh và con người dễ dàng mã hóa thông tin sự thật của vạn vật vào trong Trụ linh. Khi đó, sẽ biết cách kiểm soát được độc của hạt năng lượng âm và kích hoạt được thiện của hạt năng lượng dương bằng chân tâm. Làm được điều đó sẽ tiến nhanh tới thành tựu chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

8.1.   Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) Định của 3 nhóm vật chất

Định là đứng im, là bất động, là tĩnh lặng, là thanh tịnh, là an lạc, là thanh lọc. Định có nghĩa là không Kết cũng không Tỏa.

Định có bản chất là sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện chân tâm; là cấu trúc Trí tuệ cân bằng. Là chân tâm, là cấu trúc cân bằng nên mới đứng im, nên mới bất động, nên mới tĩnh lặng, nên mới thanh tịnh, nên mới an lạc, nên mới thanh lọc.

Cấu trúc Trí tuệ Định chính là Trụ linh của Tướng được cấu tạo thành bởi một sợi mã sóng trí tuệ âm có sóng điện nhẹ màu trắng xám với một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương nhẹ màu trắng đục. Đây là cấu trúc Trí tuệ Định ở mức nhẹ và thấp nhất. Định ở mức độ mạnh, rất mạnh, siêu mạnh thì đó chính là cấu trúc Trí tuệ Tỏa. Tức là khi cấu trúc Trí tuệ Tỏa ở mức mạnh, rất mạnh, siêu mạnh, đó là Định ở các mức cao. Định ở mức cao là do quá trình tuần hoàn sóng điện trong Trụ linh đạt đến sự bền vững. Sự bền vững đó là do sự liên kết vững chắc giữa sóng điện âm và dương trong Trụ linh.

Cấu trúc Trí tuệ Định tồn tại trong cả 3 nhóm vật chất. Đó là nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật chất.

Cấu trúc Trí tuệ Định là bản chất mà bất cứ cấu trúc Trí tuệ nào muốn phát triển nâng cấp đều phải có. Bởi chỉ khi có Định thì hết thảy cấu trúc Trí tuệ trong Vũ trụ mới cân bằng, thanh lọc được năng lượng sau khi Kết. Chỉ có Định mới giúp cho hết thảy cấu trúc Trí tuệ Tỏa được năng lượng tới vạn vật trong và ngoài Vũ trụ.

Cấu trúc Trí tuệ Định là bản chất vô cùng cần thiết cho hành trình chuyển sinh nâng cấp cấu trúc Trụ linh và bản thể vật chất. Định luôn luôn hiện hữu trong từng tích tắc của thời gian, của quá trình vận động của tất cả các dạng cấu trúc Trí tuệ (vật chất). Định sẽ được phát huy hết giá trị nếu nó được vận hành thành quy trình tự động cho quá trình Kết và Tỏa. Tức là nó phải nằm trong toàn bộ quy trình có Kết và có Tỏa. Nếu tách riêng ra, nó sẽ không có được sức mạnh siêu việt.

8.2. Các cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Định của 3 nhóm vật chất

Các cấu trúc Trí tuệ Định có trong 3 nhóm vật chất là:

Các cấu trúc Trụ – Trí Định trong nhóm siêu vật chất:

Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là dạng sống Tuệ linh. Đó là năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là dạng sống Tuệ linh và Linh hồn đã từng hoặc đang an trụ trong thân tướng con người.

Siêu Tướng có cấu trúc Trí tuệ Định là:

  • Hạt năng lượng chân tâm có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp.
  • Tuệ linh mới được chuyển sinh từ phôi năng lượng âm dương thành Tuệ linh em bé.
  • Tuệ linh có cấu trúc năng lượng cân bằng âm dương trong Trụ linh. Đó là tại Trụ linh, có hạt năng lượng âm gốc có sóng điện âm nhẹ, và hạt năng lượng dương gốc có sóng điện dương nhẹ. Đây là Định ở cảnh giới thấp.
  • Tuệ linh có cấu trúc năng lượng đa dương trong Trụ linh. Trụ linh đa dương sẽ giúp cho Tuệ linh có Định ở cảnh giới cao và rất cao.
  • Các Tuệ linh không thiện cũng không ác. Đó là Định ở mức thấp.
  • Các Tuệ linh luôn luôn làm những việc thiện vì vạn vật và Tuệ linh, con người. Đó là các Tuệ linh đã đạt được thành tựu trên hành trình chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng như những bậc hiền triết, thánh hiền.
  • Định ở cảnh giới tối thượng là Người Cha – Người Thầy vĩ đại của Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Đó là bộ lọc năng lượng viên mãn.
  • Các Tuệ linh, Linh hồn đang sống ở cảnh giới tu dưỡng, cân bằng năng lượng ở cõi trời Địa phủ.
  • Những con người đang sống. Họ không thiện cũng không ác, đó là Định ở mức thấp. Những con người luôn vì mọi người và vạn vật, Tuệ linh, đó là Định ở mức cao.
  • Những con người thông qua bốn hình tướng Đạo mà vẫn cân bằng, không vi phạm làm tổn hại bốn hình tướng Đạo, từng bước lan tỏa giá trị tới mọi người, đó là Định.

Các cấu trúc Trụ – Trí Định trong nhóm vật chất phức tạp:

Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.

Tướng phức tạp có cấu trúc Trí tuệ Định là:

  • Tầng năng lượng chân tâm có mã sóng trí tuệ phức tạp. Đó là tầng năng lượng vận hành sự sống của cả Vũ trụ. Nó giúp gắn kết giữa các tầng năng lượng tạo thành sự phát triển mạnh mẽ và lớn mạnh cho Vũ trụ.
  • Những tầng năng lượng tích cực mang sóng điện dương có mã sóng trí tuệ phức tạp. Những tầng năng lượng này có Định ở mức cao. Nó là màng bọc chân tâm bao bọc những hạt năng lượng có sóng điện dương. Nó chính là quá trình Định ở mức cao để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
  • Linh hồn các con thú lành hiền. Đó là những con thú không giết hại các con thú khác, những con thú không ăn thịt thân tướng các con thú khác.
  • Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đất đá, trong những cây có tính thanh lọc. Đó là cây cối, là những loại đá bán quý, đá quý.

Các cấu trúc Trụ – Trí Định trong nhóm vật chất giản đơn:

Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là dạng sống của thân tướng vật chất rắn, lỏng, khí; là thân tướng con người, thân tướng muông thú, thân tướng cỏ cây, đất đá, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ Vũ trụ.

Tướng giản đơn có cấu trúc Trí tuệ Định là:

  • Thân tướng con người:

+ Những con người có thân tướng mạnh khỏe, không bệnh tật.

+ Những con người không thiện cũng không ác, đó là có tư tưởng cho đến hành động không thiện cũng không ác.

+ Những cháu bé với chân tâm ban đầu chưa thiện cũng chưa ác.

+ Những con người cân bằng được cuộc sống trong bốn hình tướng Đạo. Họ không vi phạm vào bốn hình tướng Đạo. Họ từng bước thực hành lan tỏa giá trị đạo đức tới mọi người và vạn vật, muông thú.

+ Những con người có Định ở mức cao cho tới rất cao là họ sống như bản năng. Bản năng đó là luôn có tư tưởng cho đến hành động không vì mình, luôn vì vạn vật, Tuệ linh, con người.

+ Người có bộ lọc năng lượng là người có Định ở mức độ cao nhất. Họ luôn cân bằng, luôn thanh lọc, luôn an lạc, luôn chuyển hóa tuần hoàn một cách kỳ diệu.

  • Thân tướng muông thú. Đó là những con thú không ăn thịt, không giết hại con thú khác. Đó là những con thú lành hiền. Đó là những con thú giúp đỡ những con thú khác, những con thú biết giúp đỡ con người. Những con thú biết giúp đỡ muông thú và con người là Định ở mức rất cao.
  • Những cỏ cây cân bằng năng lượng. Định ở mức
  • Nước trung hòa tất cả vạn vật. Định ở mức rất
  • Những hành tinh quay tròn xung quanh chính mình là có mức Định cao.
  • Trong mỗi hành tinh đều có khu vực giao nhau giữa tầng địa chất sóng điện dương và tầng địa chất sóng điện âm là khu vực có mức Định rất cao. Đó là năng lượng chân tâm gắn kết chỉnh thể hành tinh đó được bền chặt, được tồn tại và vận động để phát triển.

9.    Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) Tỏa của 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ

Việc giải mã, thấu hiểu bản chất Trụ – Trí Tỏa của 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ sẽ giúp cho Tuệ linh và con người dễ dàng mã hóa thông tin sự thật của vạn vật vào trong Trụ linh. Khi đó, sẽ biết cách kiểm soát được độc của hạt năng lượng âm và kích hoạt được thiện của hạt năng lượng dương bằng chân tâm. Làm được sẽ tiến nhanh tới thành tựu chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

9.1.  Bản chất Trụ – Trí Tỏa của 3 nhóm vật chất

Tỏa là truyền đi, lan tỏa, đẩy đi, cho đi, cứu giúp, soi sáng, dẫn đường, chỉ dẫn.

Tỏa có bản chất là sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương. Bởi sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương mới truyền đi, mới lan tỏa, mới cho đi, mới cứu giúp, mới soi sáng, mới dẫn đường, mới chỉ dẫn.

Tỏa ở mức nhẹ là soi sáng, chỉ dẫn, truyền tải. Tỏa ở mức mạnh, rất mạnh và siêu mạnh là hy sinh vì vạn vật, Tuệ linh, con người mà không màng tới bản thể mình.

Trong bất cứ cấu trúc Trí tuệ nào được hình thành từ sự hợp nhất của sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và dương đều có Tỏa. Bởi khi Trụ linh của Tướng được hình thành từ hai sợi mã sóng trí tuệ, có một sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương. Mà bản chất của sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương là Tỏa. Điều này cho thấy, hết thảy các cấu trúc Trí tuệ (trừ các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và sóng điện trung tính) đều có bản chất là Tỏa. Có chăng mức độ Tỏa ở mức siêu nhẹ hay nhẹ, mạnh hay siêu mạnh.

Tỏa tồn tại trong cả 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ. Ba nhóm cấu trúc Trí tuệ tương ứng với 3 nhóm Tướng (vật chất). Đó là nhóm cấu trúc trí tuệ giản đơn, nhóm cấu trúc Trí tuệ phức tạp, nhóm cấu trúc siêu Trí tuệ.

Tỏa là bản chất mà bất cứ cấu trúc Trí tuệ nào muốn phát triển nâng cấp phải có. Tỏa càng ở mức độ mạnh, rất mạnh và siêu mạnh sẽ giúp sự phát triển của cấu trúc trí tuệ ngày càng lớn mạnh. Bởi, để Tỏa được cần phải trải qua quá trình Kết và Định. Do đó, Tỏa là hoàn chỉnh của một quy trình Kết – Định – Tỏa một cách tuần hoàn và viên mãn.

Có 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ dễ dàng chuyển sinh thành Trụ linh có bộ lọc năng lượng. Đó là 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ Tỏa từ mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh:

  • Nhóm cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh là nhóm cấu trúc Trí tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện chớm âm màu trắng xám với một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương phát triển màu xanh lá, gọi là Trụ linh đa dương mạnh. Do sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm chỉ rung lắc nhẹ, quay ngược nhẹ, nên thu hút vừa đủ năng lượng hoại diệt di chuyển tới. Đồng thời sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương mạnh lại quay thuận chiều kim đồng hồ mạnh sẽ dễ dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để giúp cho cấu trúc Trí tuệ phân tách, liên kết chặt chẽ. Do đó, đây là cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh.
  • Nhóm cấu trúc Trí tuệ Tỏa rất mạnh là nhóm cấu trúc Trí tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện chớm âm màu trắng xám với một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương lan tỏa màu đỏ lửa, gọi là Trụ linh đa dương rất mạnh. Do sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm chỉ rung lắc nhẹ, quay ngược nhẹ, nên thu hút vừa đủ năng lượng hoại diệt di chuyển tới. Đồng thời sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương rất mạnh lại quay thuận chiều kim đồng hồ rất mạnh sẽ dễ dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để giúp cho cấu trúc Trí tuệ phân tách, liên kết chặt chẽ. Do đó, đây là cấu trúc Trí tuệ Tỏa rất mạnh.
  • Nhóm cấu trúc Trí tuệ Tỏa siêu mạnh là nhóm cấu trúc Trí tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện chớm âm màu trắng xám với một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương đoàn kết màu vàng, gọi là Trụ linh đa dương siêu mạnh. Do sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm chỉ rung lắc nhẹ, quay ngược nhẹ, nên thu hút vừa đủ năng lượng hoại diệt di chuyển tới. Đồng thời sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương siêu mạnh lại quay thuận chiều kim đồng hồ siêu mạnh sẽ dễ dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để giúp cho cấu trúc Trí tuệ phân tách, liên kết chặt chẽ. Do đó, đây là cấu trúc Trí tuệ Tỏa siêu mạnh.

Các cấu trúc Trí tuệ có bản chất Tỏa từ cấu trúc hạt năng lượng tận cùng cho tới cấu trúc Trụ linh, cho tới cấu trúc Tướng (Tuệ linh, con người, muông thú, hành tinh, thiên hà, Vũ trụ) ở mức mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh, đó là các cấu trúc Trí tuệ đa dương. Khi đa dương, từ Trụ linh sẽ phân tách ra vô số sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương để cấu tạo thành các hạt năng lượng dương có liên kết dây chặt chẽ. Đồng thời những sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm được phân tách ra có sóng điện âm rất nhẹ. Sau đó phân tách, liên kết cấu tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh tạo thành sức mạnh chuyển hóa năng lượng hoại diệt một cách kỳ diệu. Những cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh này sẽ có khả năng kích nổ được năng lượng hoại diệt do năng lượng hoại diệt di chuyển vào ít bởi sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm rung lắc nhẹ.

Cấu trúc Trí tuệ mà chuyển sinh theo hướng Tỏa sẽ nhanh chóng đạt được chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng. Đó là Kết – Định – Tỏa một cách kỳ diệu.

 

9.2. Các cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Tỏa của 3 nhóm vật chất

Các cấu trúc Trí tuệ Tỏa ở mức mạnh, rất mạnh và siêu mạnh có trong 3 nhóm vật chất là:

Các cấu trúc Trụ – Trí Tỏa trong nhóm siêu vật chất:

Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là dạng sống Tuệ linh. Đó là dạng sống Tuệ linh và Linh hồn đã từng hoặc đang an trụ trong thân tướng con người.

Siêu Tướng có cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh và siêu mạnh là:

  • Hạt năng lượng dương tận cùng màu xanh lá, màu đỏ lửa, màu vàng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp.
  • Tuệ linh có Trụ linh đa dương từ mạnh tới siêu mạnh.
  • Tuệ linh đã đạt được những thành tựu trên hành trình chuyển sinh như các bậc hiền triết, các bậc thánh hiền.
  • Tuệ linh đã đắc được bộ lọc năng lượng có khả năng Tỏa ra vô lượng các siêu hạt năng lượng.
  • Tuệ linh đang an trụ trong con người có tư tưởng cho đến hành động tích cực luôn vì vạn vật, Tuệ linh, con người, là người không vi phạm vào bốn hình tướng Đạo. Họ là những con người luôn có tư tưởng cho đến hành động lan tỏa những giá trị đạo đức, tuân thủ Quy luật Nhân quả, thực hành cải tạo đời sống viên mãn tới vạn vật, Tuệ linh, con người. Những người đạt đến siêu Tỏa mạnh nhất chính là những con người luôn luôn Phổ độ chúng sinh, Tuệ linh, con người, vì họ lan tỏa đại hệ tư tưởng giác ngộ tới hết thảy Tuệ linh, con người cùng nhau chuyển sinh bền vững nhất cho Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Những siêu Tướng có cấu trúc Trí tuệ Tỏa ở mức mạnh, rất mạnh và siêu mạnh sẽ giúp cho Trụ linh của họ phân tách ra vô số những siêu sợi mã sóng trí tuệ tạo thành vô số siêu hạt năng lượng. Từ những siêu hạt năng lượng đó sẽ cấu tạo và phát triển Tuệ linh họ trở thành liên kết được chặt chẽ, bền vững với tất cả Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Tuệ linh họ trở nên bất tử. Tuệ linh họ có cấu trúc bộ lọc năng lượng viên mãn bởi họ đi theo hướng chuyển sinh là Tỏa những giá trị giác ngộ tới tất cả Tuệ linh, con người. Họ sẽ hấp thụ và chuyển hóa được năng lượng hoại diệt thành siêu hạt năng lượng thông qua bộ lọc trong Trụ linh của họ.

Các cấu trúc Trụ – Trí Tỏa trong nhóm vật chất phức tạp:

Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.

Tướng phức tạp có cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh và siêu mạnh là:

  • Những tầng năng lượng tích cực có sóng điện dương màu xanh lá, màu đỏ lửa, màu vàng. Đó là những tầng năng lượng sóng điện dương vận hành Vũ trụ.
  • Những linh hồn các con thú xả thân cứu giúp con người, xả thân cứu giúp những con thú đồng loại hoặc những con thú khác.
  • Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đá. Đó là những dòng đá luôn tỏa những năng lượng mang lại sự sống trong lành và an lạc cho con người, muông thú, cỏ cây xung quanh đó.
  • Những linh hồn của cây cối luôn tỏa năng lượng sự sống ra môi trường xung quanh.

Tướng có cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh sẽ giúp cho các cấu trúc năng lượng đó nhanh được chuyển sinh bền vững và nâng cấp cao hơn.

Các cấu trúc Trụ – Trí Tỏa trong nhóm vật chất giản đơn:

Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là dạng sống của thân tướng vật chất rắn, lỏng, khí; là thân tướng con người, thân tướng muông thú, thân tướng cỏ cây, đất đá, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ Vũ trụ.

Tướng giản đơn có cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh và siêu mạnh là:

  • Thân tướng con người:

+ Những con người không có bệnh về thân tướng. Họ khỏe mạnh vì sự vận động lan tỏa.

+ Những người luôn miệt mài lao động sản xuất, không ngừng nghỉ nghiên cứu các công trình, các phương pháp, các cấu trúc phát triển sự sống tốt đẹp và bền vững tới vạn vật và Tuệ linh, con người. Họ là những công nhân, những nông dân, những thương nhân, những nhà nghiên cứu, những nhà sản xuất, những nhà sáng chế, những nhà phát minh.

+ Những người luôn luôn lan tỏa các giá trị thúc đẩy phát triển bền vững và an lạc cho con người và vạn vật. Họ là những nhà giáo, là những người lan truyền tri thức tới Tuệ linh, con người.

+ Những người luôn luôn đoàn kết tất cả Tuệ linh, con người, vạn vật, muông thú trong sự cảm thông, sẻ chia, giúp đỡ cùng nhau lan tỏa những giá trị, công trình phát triển bền vững tới Tuệ linh, con người.

+ Những người có hệ tư tưởng cho đến hành động luôn vì lợi ích mọi người, vạn vật và muông thú mà không màng tới bản thân họ.

+ Những người hành thiện cứu giúp Tuệ linh, con người, vạn vật và muông thú.

+ Những người thực hành phổ độ lan tỏa giá trị của giáo lý giác ngộ tới tất cả Tuệ linh, con người.

  • Thân tướng muông thú. Đó là những con thú không giết hại hay làm tổn hại những con thú khác. Nó xả thân cứu giúp các con thú khác, nó bảo vệ và cứu giúp đồng loại của nó trong sự không gây tổn hại tới con người và muông thú khác.
  • Những cỏ cây luôn tỏa oxy làm trong lành và an lạc môi trường sống xung quanh.
  • Nước lan tỏa giá trị làm mát và nuôi dưỡng vạn vật thế gian. Nó bốc hơi để tạo thành mưa rồi tưới mát cho vạn vật cùng phát triển. Nó là sự sống luôn cho đi để ngày càng lớn mạnh. Sự lớn mạnh bởi nó có trong tất cả vạn vật thế
  • Những loại đá quý, bán quý có giá trị tỏa ra những năng lượng tốt nhằm tạo ra môi trường sống trong lành và an lạc.
  • Lửa, ánh sáng để soi sáng và làm ấm các dạng sống ở thế gian.
  • Những hành tinh có tính tỏa mạnh là các mặt trời trong Vũ trụ.
  • Là những cấu trúc địa chất nóng chảy, là nham thạch trong các hành tinh. Nhiệt lượng được tỏa ra để soi sáng, tạo ra sự phân tách liên kết cho vạn vật, Vũ trụ được phát triển.

III.    Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển sinh của Trụ – Trí (trí tuệ)

Chân lý Vạn vật trong Trụ – Trí (trí tuệ) sẽ là: Trí tuệ không tự sinh ra, Trí tuệ không tự mất đi, khổ đau của Trí tuệ không tự đến và không tự đi, tất cả do duyên nghiệp hay còn gọi là nhân quả. Cơ chế chuyển sinh của Trí tuệ chính là cơ chế “Phân tách và liên kết dây”.

Chân lý Vạn vật chính là Quy luật Nhân quả, chính là chữ Vô. Vô là tướng không. Tướng không là không bất tử, không vĩnh cửu, không trường tồn. Nó chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định rồi lại chuyển hóa sang tướng khác do duyên. Do đó, Chân lý Vạn vật, Quy luật Nhân quả được đúc kết thành chữ Duyên. Duyên chính là tướng không. Thấu hiểu chữ Duyên thì ta sẽ thấu hiểu được quá khứ, hiện tại và tương lai.

Vận hành Chân lý Vạn vật của Trí tuệ chính là cơ chế phân tách và liên kết dây. Cơ chế phân tách và liên kết sẽ được xảy ra trong môi trường có điều kiện. Đó là môi trường có tương tác giữa các chỉnh thể, trong một quy trình thời gian nhất định, môi trường có sóng điện âm hoặc dương hoặc trung tính, có nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt được kích nổ hoặc chưa kích nổ. Trụ – Trí của tất cả các nhóm vật chất từ giản đơn cho tới phức tạp và siêu vật chất để xảy ra phân tách và liên kết thì đều phải tồn tại trong môi trường có điều kiện.

Khi chúng ta thấu hiểu hai Chân lý và các cơ chế vận hành của hai Chân lý, chúng ta sẽ thấu hiểu và giải mã được cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) sinh ra và mất đi khi nào; khổ đau của Trụ – Trí; nguyên nhân Trụ – Trí u mê và giác ngộ của Tuệ linh, con người; nguyên nhân Trụ – Trí Kết, Định, Tỏa của 3 nhóm vật chất; các con đường chuyển sinh của Trụ – Trí.

1.   Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) được sinh ra và mất đi

Nguyên nhân Trụ – Trí được sinh ra:

  • Đối với sợi mã sóng trí tuệ của năng lượng hoại diệt: sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng hoại diệt được sinh ra là bởi hạt sóng xanh phân tách, di chuyển thẳng trong môi trường trung tính.
  • Đối với 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ, Tuệ linh, con người: Trụ – Trí được sinh ra là do cơ chế phân tách, liên kết trong môi trường có nhiệt lượng, di chuyển tương tác với nhau và quay tròn.

Nguyên nhân Trụ – Trí bị mất đi:

  • Đối với năng lượng hoại diệt: sợi mã sóng trí tuệ bị kích nổ và hoại diệt vĩnh viễn bởi nhiệt lượng dương.
  • Đối với 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ, Tuệ linh, con người:

+ Trụ – Trí chuyển sinh nâng cấp thành cấu trúc mới bởi cơ chế phân tách liên kết bền vững. Bền vững là nhờ có nhiệt lượng lớn từ năng lượng hoại diệt bị kích nổ với quá trình quay tròn khi tương tác với tất cả các nhóm vật chất để mã hóa thông tin. Đó là chuyển sinh nâng cấp thành cấu trúc Trụ – Trí mới và mất đi cấu trúc Trụ – Trí cũ.

+ Trụ – Trí bị đứt liên kết, bị đồng hóa, bị phân rã và hoại diệt bởi năng lượng hoại diệt. Năng lượng hoại diệt phân rã được Trụ – Trí là bởi cấu trúc Trụ – Trí có đa sóng điện âm.

2. Khổ đau của Trụ – Trí (trí tuệ)

Khổ đau của cấu trúc Trụ – Trí là sự biến đổi mã sóng trí tuệ trong cấu trúc theo hướng phân rã và hoại diệt. Đó là cấu trúc Trụ – Trí thực hành cơ chế phân tách liên kết ra nhiều năng lượng âm. Khi sản sinh ra nhiều hạt năng lượng âm nên nhanh chóng bị năng lượng hoại diệt di chuyển vào phân rã và hoại diệt.

Để chấm dứt khổ đau, cấu trúc Trụ – Trí phải thực hành cơ chế phân tách liên kết theo hướng bền vững. Đó là chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng để thực hiện được Kết – Định – Tỏa. Chỉ khi chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng mới chấm dứt được khổ đau của cấu trúc Trụ – Trí.

3. Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) u mê và giác ngộ của Tuệ linh, con người

Thông qua quá trình tu hành của dạng sống Tuệ linh ở nhân gian với vô số các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo, với những khổ đau, kiếp nạn, an vui, hạnh phúc, Tuệ linh và con người đã bộc phát được tất cả các độc của sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng âm và thiện của sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng dương của Trụ linh.

Chính vì vậy, vị Tuệ linh đầu tiên đã đúc kết, tìm ra được nguyên nhân của trí tuệ u mê (các kịch bản bộc phát độc của hạt năng lượng âm) và trí tuệ giác ngộ (các kịch bản bộc phát thiện của hạt năng lượng dương) của Tuệ linh và con người:

3.1.  Nguyên nhân Trụ – Trí u mê của Tuệ linh và con người

Nguyên nhân Trụ – Trí u mê là độc của sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng âm của Trụ linh đã được bộc phát hết trong các kịch bản tương tác.

Nguyên nhân cội nguồn của trí tuệ u mê là do trong Trụ linh của Tuệ linh khi hợp thành bởi hạt năng lượng có sóng điện âm với hạt năng lượng sóng điện dương, sóng điện âm mạnh hơn sóng điện dương. Cụ thể hạt sóng điện âm có trạng thái năng lượng màu đỏ máu, màu đen, màu xám. Sóng điện âm mạnh sẽ khiến cho Tuệ linh và chân tu có thiên hướng vơ về, hút về, lấy về mà u mê.

Nguyên nhân tiếp theo là do trí tuệ bám định, tham lam, vơ vét các giả tướng về nơi thân tướng ta để hưởng thụ, để thỏa mãn hay vẫn chưa thỏa mãn. Đó là bám định vào giả tướng, không thấu hiểu được sự thật và chân tướng của các giả tướng có hay không có, yêu thương hay thù ghét, cầu được hay cầu không được, có trí tuệ hay không có trí tuệ, hành hay không hành. Khi bám định vào các giả tướng, ta sẽ luẩn quẩn sống trong màn đêm tối mịt mù mà không nhận thấy sự thật của các giả tướng, dẫn đến hành động hay không hành động để thỏa mãn lợi ích ích kỷ của mình, của gia đình và dòng họ mình mà gây tổn hại đến lợi ích của người khác, của xã hội và nhân loại cũng như Tuệ linh, con người. Khi đó nhân quả báo ứng sẽ hiện hữu tại hiện kiếp hoặc trong các kiếp sau do nghiệp lực đã tạo ra bởi trí tuệ u mê. Như vậy trí tuệ u mê không tự nhiên sinh ra, nó sinh ra do duyên hợp bởi các giả tướng mà nhân loại không thấu hiểu chân tướng của vạn vật.

3.2.     Nguyên nhân Trụ – Trí giác ngộ của Tuệ linh và con người

Nguyên nhân Trụ – Trí giác ngộ là thiện của sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng dương của Trụ linh đã được bộc phát hết trong các kịch bản tương tác.

Nguyên nhân cội nguồn của trí tuệ giác ngộ là do trong Trụ linh của Tuệ linh khi hợp thành bởi hạt năng lượng có sóng điện âm với hạt năng lượng sóng điện dương, sóng điện dương mạnh hơn sóng điện âm thì chân tu sẽ dễ dàng giác ngộ. Cụ thể hạt năng lượng dương có trạng thái năng lượng siêu mạnh là màu vàng, rất mạnh màu đỏ lửa, mạnh màu xanh lá, còn hạt năng lượng âm nhẹ có trạng thái năng lượng màu trắng xám. Sóng điện dương mạnh sẽ giúp cho Tuệ linh và chân tu có thiên hướng hành thiện, cho đi, lan tỏa và phát triển cho vạn vật, chúng sinh, nên sẽ giác ngộ hơn.

Nguyên nhân thứ hai là sự thấu hiểu Chân lý Vạn vật, thông qua Chân lý Vạn vật để soi thấu chân tướng, căn nguyên của các giả tướng, dùng ánh sáng mặt trời của Chân lý Vạn vật để xua tan màn đêm tối u mê của trí tuệ. Khi ta mang ánh sáng mặt trời chiếu vào màn đêm u mê của từng giả tướng thì chân tướng của sự thật sẽ được soi sáng, màn đêm sẽ tiêu tan, trí tuệ giác ngộ sẽ hiện hữu ở từng giả tướng cho đến khi ta soi thấu hết tất cả các giả tướng và sau đó dùng Chân lý Giác ngộ để chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người, cho chúng sinh thì sẽ đạt được trí tuệ giác ngộ viên mãn.

Soi thấu giả tướng có:

Khi dùng Chân lý Vạn vật để soi chiếu vào người có địa vị thì thấy địa vị đó không thuộc về người đó, địa vị đó không thuộc về ai, và chính địa vị đó nó chẳng thuộc về nó, nó do duyên mà hợp thành. Do phước báo từ kiếp trước để kiếp này người đó tạm thời có nó, nó cũng sẽ do duyên mà hoại diệt. Do đó không nên ích kỷ về mình mà gây tổn thương cho người khác, hãy tranh thủ thời gian ta đang tạm thời nắm giữ mà chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người.

Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu vào tài sản người giàu có, thấy rằng tiền tài mà họ đang nắm giữ cũng chẳng phải của họ, chẳng phải của ai, chẳng phải của chính nó. Nó do duyên mà hợp thành, nó do phước báo từ kiếp trước mang tiền cứu người hành thiện nên kiếp này được tạm thời nắm giữ, nó cũng sẽ do duyên mà hoại diệt, nó chỉ tạm thời được người đó nắm giữ. Do đó nên tranh thủ thời gian nắm giữ nó mà chuyển hóa thành lợi ích cho chúng sinh, không nên ích kỷ về mình.

Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu người có cơ thể khỏe mạnh là do duyên tạo nhiều phước giúp đỡ người kiếp trước nên kiếp này được luân hồi trong thân hình khỏe mạnh. Do đó nên tranh thủ thời gian khỏe mạnh để giúp người thì kiếp sau sẽ được khỏe mạnh và tốt đẹp hơn, bởi thân tướng khỏe mạnh đó cũng do duyên mà hoại diệt.

Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu người con gái có thân hình xinh đẹp thì kiếp trước tạo nhiều phước báo, hành thiện giúp người nên kiếp này được luân hồi trong một thân hình xinh đẹp. Nó là do duyên sinh ra, và cũng do duyên mà hoại diệt. Do đó nên làm điều có lợi ích cho mọi người, tránh dùng thân hình tạo tội tà dâm để tránh kiếp sau bị đọa thành thân hình xấu xí và bệnh tật…

Soi thấu giả tướng không có:

Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu người nghèo, thấy kiếp trước lười lao động, lừa hại người nên kiếp này chịu trong thân tướng và hoàn cảnh nghèo, cái nghèo này cũng chẳng của ai, chẳng phải của họ. Do duyên mà nghèo thì cũng do duyên mà hết nghèo, và chỉ có lao động chân chính và mang lại lợi ích cho mọi người thì ta mới thay đổi cuộc sống tích cực hơn.

Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu người không có địa vị là do duyên kiếp trước tham ô tham nhũng, kiếp này không thể có địa vị. Do đó có chạy chức chạy quyền cũng không có được. Chỉ còn cách duy nhất là chuyển hóa lợi thế mình đang có để giúp đỡ mọi người và người dân thì sẽ chuyển hóa được cuộc sống tốt đẹp hơn…

Soi thấu vào các giả tướng yêu thương, thù ghét, có trí tuệ, không có trí tuệ, cầu được, cầu không được, hành hay không hành:

Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu thì thấy rằng để thân tướng kiếp này đang an trụ hoặc sống trong giả tướng nào thì do kiếp trước gieo duyên mà kiếp này được hưởng phước báo hay nhận quả nghiệp. Bản chất các giả tướng đều không bất tử, nó không của ai, và nó không của chính nó. Nên khi thấu hiểu Chân lý Vạn vật thì chúng ta không nên bám định vào nó mà gây tổn thương cho người khác. Vì khi ta gây tổn thương cho người khác, kiếp sau ta chính là người bị gây tổn thương. Do đó hãy chuyển hóa nó thành lợi ích phục vụ cho mọi người, cho chúng sinh để tạo cho ta năng lượng tốt cho kiếp sau. Như người nào đó kiếp này có trí tuệ uyên bác, họ không định vào giả tướng có trí tuệ mà khinh khi nhân loại, ngược lại họ nghiên cứu ra nhiều công trình mang lại lợi ích cho nhân loại. Khi thấu hiểu Chân lý Vạn vật và kế hoạch tu hành dưới nhân gian của các Tuệ linh, các Tuệ linh phải trải qua hết các kiếp nạn khổ đau, trải qua hết các thân tướng giả tướng khác nhau. Do đó hãy dùng Chân lý Giác ngộ để chuyển hóa các giả tướng thành lợi ích cho chúng sinh dù trong hoàn cảnh thân tướng nào đi chăng nữa. Đó là trí tuệ giác ngộ.

Chân lý Vạn vật cũng cho chúng ta thấy rằng trí tuệ u mê cũng không bất tử, không trường tồn và mãi mãi là u mê. Do đó chỉ có gieo duyên bằng chân tâm sẽ giúp chuyển hóa trí tuệ u mê thành trí tuệ giác ngộ. Chân lý Vạn vật cũng cho thấy trí tuệ giác ngộ cũng không bất tử, nó có thể từ giác ngộ mà trở lại thành u mê. Do đó chúng ta phải gieo duyên bằng chân tâm để duy trì trí tuệ giác ngộ và chuyển hóa từ trí tuệ giác ngộ thành hành động cải tạo Vũ trụ quan được tốt đẹp hơn. Cũng thông qua Chân lý Vạn vật và bản chất của trí tuệ để chúng ta thấy rằng bất cứ ai cũng có thể giác ngộ, tất cả chúng sinh, Tuệ linh, con người đều giác ngộ được, đều chuyển hóa thành trí tuệ giác ngộ nếu chúng ta dùng hai Chân lý để soi thấu các giả tướng và từng bước chuyển hóa căn cơ giác ngộ cho chúng sinh, Tuệ linh, con người.

Nhận diện được tất cả các kịch bản để Trụ linh bộc phát độc và thiện là một thành tựu vô cùng lớn trên hành trình chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Bước tiếp theo cần làm là thực hành theo con đường chuyển sinh bền vững (giác ngộ) là sẽ thành công.

4.   Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) Kết, Định, Tỏa của 3 nhóm vật chất

Nhận diện được nguyên nhân Trụ – Trí kết, định, tỏa của 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ sẽ giúp cho Trụ linh của Tuệ linh và con người mã hóa được đầy đủ thông tin của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người. Khi đó, sẽ dễ dàng thực hành chuyển sinh theo hướng giác ngộ để có được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh của Tuệ linh và con người.

4.1.    Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) Kết của 3 nhóm vật chất

Có 2 nguyên nhân khiến cho các cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất mạnh và siêu mạnh:

  • Nguyên nhân cội nguồn, gốc nhất chính là Trụ linh của cấu trúc Tướng có đa sóng điện âm. Trụ linh chính là hai hạt năng lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương. Khi hai hạt năng lượng liên kết hợp nhất lại tạo thành Trụ linh, sóng điện của hai sợi mã sóng trí tuệ âm và dương sẽ tuần hoàn. Bất kỳ Trụ linh nào được hợp thành bởi hạt năng lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm màu xám, màu đen, màu đỏ máu đều cấu tạo thành Trụ linh đa âm. Không cần biết sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương mạnh hay nhẹ, chỉ cần có các nhóm sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm trên sẽ khiến cho Trụ linh trở thành một cấu trúc Trí tuệ Kết từ mạnh cho đến rất mạnh và siêu mạnh. Kết mạnh là bởi do sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng âm gốc có tốc độ rung, tốc độ quay ngược mạnh, rất mạnh, siêu mạnh. Chính những tốc độ mạnh, rất mạnh, siêu mạnh đó đã khiến cho bản chất của cấu trúc Trí tuệ là hút về. Khi hút về với tốc độ mạnh sẽ khiến cho quá trình phân tách ra vô số các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm, các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương không được sản

Điều này làm mất sự cân bằng trong cấu trúc trí tuệ của Tướng. Không những vậy, năng lượng hoại diệt sẽ xâm nhập vào cấu trúc trí tuệ gây đứt liên kết, gây phân rã và rồi hoại diệt. Khi bị năng lượng hoại diệt xâm nhập gây phân rã, tốc độ Kết của cấu trúc Trí tuệ sẽ đạt đến siêu mạnh cực đại và hoại diệt.

  • Nguyên nhân thứ hai khiến cho cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất mạnh, siêu mạnh là do môi trường tương tác giữa các cấu trúc Trí tuệ. Các cấu trúc Trí tuệ tương tác trong môi trường mang sóng điện âm sẽ khiến cho cấu trúc Trí tuệ dễ dàng hấp thụ năng lượng âm từ môi trường đó. Nếu cấu trúc Trí tuệ đa âm thì sẽ rất dễ dàng hút và hấp thụ nhiệt âm của môi trường có sóng điện âm. Điều đó sẽ khiến cho cấu trúc Trí tuệ trở nên Kết mạnh và siêu mạnh hơn. Nếu cấu trúc Trí tuệ không bị đa âm, nhưng do tương tác trong môi trường có sóng điện âm trong thời gian dài cũng khiến cho cấu trúc Trí tuệ đó dễ dàng bị nhiễm và trở thành cấu trúc Trí tuệ Kết.

Trụ linh đa sóng điện âm tương tác trong môi trường có sóng điện âm hoặc Trụ linh không đa sóng điện âm nhưng tương tác trong môi trường có sóng điện âm, quá trình tương tác đó, Trụ linh sẽ thực hiện cơ chế phân tách, liên kết sợi mã sóng trí tuệ (hạt năng lượng tận cùng). Trước quá trình xảy ra phân tách, liên kết sợi mã sóng trí tuệ từ Trụ linh là quá trình giải mã các cấu trúc trí tuệ của Trụ linh. Vì Trụ linh đa âm hoặc tương tác trong môi trường có sóng điện âm nên sẽ khiến Trụ linh dễ dàng giải mã sai. Giải mã sai chính là không nhận diện được, thấu được sự chân thật, sự nguy hại, sự hoại diệt từ các tướng khác. Thay vào đó, Trụ linh lại mã hóa, giải mã và cho rằng những điều đó là tốt đẹp, là chân thật, là giá trị thật. Có thể nói, do việc giải mã sai về giá trị của các cấu

trúc trí tuệ mà Trụ linh bị đa âm; hoặc tương tác trong môi trường sóng điện âm đã khiến cho cấu trúc Trụ linh có bản chất Kết sẽ khó mà có thể tự chuyển hóa cấu trúc Trụ linh trở nên bền vững và an toàn trong quá trình tương tác. Nó cần phải có môi trường mang sóng điện dương và cần có sự tương trợ từ các cấu trúc Trí tuệ Tỏa để chuyển sinh theo hướng bền vững.

4.2.   Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) Định của 3 nhóm vật chất

Có 2 nguyên nhân khiến cho các cấu trúc Trí tuệ Định:

  • Nguyên nhân cội nguồn, gốc nhất chính là Trụ linh của Tướng có cấu trúc cân bằng sóng điện âm dương và có cấu trúc đa sóng điện dương:

+ Trụ linh cân bằng sóng điện âm dương là Trụ linh được cấu tạo từ hai hạt năng lượng âm dương tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm nhẹ màu trắng xám với sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương nhẹ màu trắng đục. Cấu trúc Trí tuệ Định này ở mức thấp, do cả hai sợi mã sóng trí tuệ rung động rất ít và quay chậm nên nó tự bảo toàn chính nó, không bị năng lượng hoại diệt tấn công.

+ Trụ linh đa sóng điện dương là Trụ linh được hợp thành bởi hạt năng lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm nhẹ màu trắng xám với sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương mạnh, rất mạnh và siêu mạnh (phát triển màu xanh lá, lan tỏa màu đỏ lửa, đoàn kết màu vàng). Trụ linh được cấu tạo từ các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương và âm như trên sẽ tạo thành cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh, siêu mạnh. Tỏa mạnh cho tới siêu mạnh chính là Định mạnh cho tới siêu mạnh. Bởi Định chính là nền tảng cho quá trình chuyển sinh thành Tỏa mạnh và đạt đến chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng.

  • Nguyên nhân thứ hai khiến cho cấu trúc Trí tuệ Định là do môi trường tương tác của các cấu trúc Trí tuệ. Nếu cấu trúc Trí tuệ Định tương tác trong môi trường sóng điện dương, cấu trúc Trí tuệ Định sẽ dễ dàng nhiễm nhiệt lượng có sóng điện dương để chuyển hóa thành cấu trúc Định – Tỏa ở mức cao. Nếu cấu trúc Trí tuệ Định tương tác trong môi trường có sóng điện âm, cấu trúc Trí tuệ Định sẽ dễ dàng bị chuyển sinh thành cấu trúc Trí tuệ Kết. Nếu cấu trúc Trí tuệ Định tương tác trong môi trường sóng điện trung tính sẽ khiến cho cấu trúc Trí tuệ Định ở mức thấp.

Quá trình cấu trúc Trí tuệ Định giải mã để xảy ra và hoàn thành quá trình phân tách, liên kết sợi mã sóng trí tuệ (hạt năng lượng) tùy thuộc vào môi trường sóng điện. Nếu tương tác trong môi trường sóng điện dương thì quá trình giải mã sẽ đạt được sự chân thật và giá trị đúng. Khi đó sẽ phân tách thành các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương và tạo thành cấu trúc Trí tuệ vững chắc. Nếu tương tác trong môi trường có sóng điện âm thì quá trình giải mã sẽ giải mã sai, không thấy được sự thật, không chân thật, không phải giá trị đúng, sẽ phân tách ra sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm và tạo thành cấu trúc trí tuệ không bền vững.

4.3.    Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) Tỏa của 3 nhóm vật chất

Có 2 nguyên nhân khiến cho các cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh và siêu mạnh:

  • Nguyên nhân cội nguồn, gốc nhất chính là Trụ linh của cấu trúc Tướng có đa sóng điện dương. Trụ linh chính là hai hạt năng lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương. Khi hai hạt năng lượng liên kết, hợp nhất lại tạo thành Trụ linh, sóng điện của hai sợi mã sóng trí tuệ âm và dương sẽ tuần hoàn. Bất kỳ Trụ linh nào được hợp thành bởi hạt năng lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm nhẹ màu trắng xám với sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương mạnh, rất mạnh và siêu mạnh (phát triển màu xanh lá, lan tỏa màu đỏ lửa, đoàn kết màu vàng) – Trụ linh được cấu tạo từ các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương và âm như trên sẽ tạo thành cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh, siêu mạnh. Tỏa mạnh, rất mạnh, siêu mạnh là vì sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng âm rung động nhẹ, hút nhẹ, trong khi đó sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương lại truyền tải sóng điện rất mạnh. Chính vì vậy, cấu trúc Trí tuệ có bản chất là Tỏa. Cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh, siêu mạnh sẽ giúp cho cấu trúc Trí tuệ thu hút vừa đủ năng lượng hoại diệt về và dễ dàng kích nổ để tạo thành nhiệt lượng thúc đẩy quá trình phân tách, liên kết hạt năng lượng cho cấu trúc Tướng trở nên bền vững.
  • Nguyên nhân thứ hai khiến cho cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh, siêu mạnh là do môi trường tương tác giữa các cấu trúc Trí tuệ. Các cấu trúc Trí tuệ tương tác trong môi trường mang sóng điện dương sẽ khiến cho cấu trúc Trí tuệ dễ dàng hấp thụ năng lượng dương từ môi trường đó. Nếu cấu trúc Trí tuệ đa âm tương tác trong môi trường sóng điện dương, cấu trúc Trí tuệ đó sẽ dễ dàng nhiễm nhiệt lượng có sóng điện dương để chuyển hóa dần cấu trúc Trí tuệ từ Kết trở thành Tỏa. Nếu cấu trúc Trí tuệ đa dương tương tác trong môi trường có sóng điện dương, hoặc trung tính, cấu trúc Trí tuệ đó rất dễ dàng Tỏa đạt đến siêu mạnh.

Quá trình cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh, siêu mạnh tương tác trong môi trường có sóng điện âm hoặc dương hoặc trung tính sẽ diễn ra quá trình phân tách, liên kết sợi mã sóng trí tuệ. Trước khi diễn ra và hoàn thành quá trình phân tách, liên kết sợi mã sóng trí tuệ, nó đòi hỏi phải có quá trình tương tác rung động. Quá trình tương tác rung động chính là quá trình giải mã các cấu trúc Trí tuệ (Tướng) của Trụ linh. Nếu cấu trúc Trí tuệ đa dương tương tác trong môi trường có sóng điện dương hoặc trung tính, Trụ linh sẽ dễ dàng giải mã đúng, chân thật, giá trị thật của các cấu trúc Trí tuệ (Tướng) khác. Từ đó sẽ phân tách, liên kết ra những sợi mã sóng trí tuệ (hạt năng lượng) có sóng điện dương với cơ chế liên kết chặt. Nếu cấu trúc Trí tuệ đa dương tương tác trong môi trường có sóng điện âm, Trụ linh cũng dễ dàng, thuận lợi để giải mã đúng, chân thật, giá trị thật của các cấu trúc Trí tuệ để phân tách, liên kết được những sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương được bền chặt.

5.   Các con đường chuyển sinh của Trụ – Trí (trí tuệ) trong 3 nhóm vật chất

Có 3 loại Trụ – Trí đối với con đường chuyển sinh của 3 nhóm vật chất:

5.1.   Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Kết đối với con đường chuyển sinh

Cấu trúc Trụ – Trí Kết là bao gồm 3 nhóm vật chất trong toàn bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết nhằm thỏa mãn lợi ích của bản thể Tướng đó mà không vì lợi ích của hết thảy Tướng khác, thậm chí là gây tổn hại tới các Tướng khác. Đây là Kết mạnh cho tới siêu mạnh.

Khi các cấu trúc Trụ – Trí thực hiện đời sống Kết mạnh và siêu mạnh, các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm sẽ được phân tách ra vô số và lưu giữ ở hạt âm gốc của Trụ linh. Chúng sẽ phân tách thành các hạt năng lượng tận cùng và liên kết lại tạo thành những hạt năng lượng âm tổng hợp rồi phân tách ra cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng. Vì chỉ thực hiện đời sống là Kết nên Trụ linh không phân tách các hạt năng lượng dương ra để tạo thành cấu trúc liên kết chặt chẽ và mở rộng. Tức là sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương không được sinh ra để làm nhiệm vụ tạo thành hạt năng lượng dương tận cùng rồi liên kết tạo thành hạt năng lượng tổng hợp mở rộng bên ngoài Trụ linh. Trong khi đó các hạt năng lượng âm được sinh ra nhiều mà không có hạt năng lượng dương để cân bằng tỷ lệ 1:1. Khi đó, các hạt năng lượng âm sẽ tập trung số đông tại các hạt năng lượng dương ít ỏi. Các hạt năng lượng âm lại có bản chất là thu hút tín hiệu bởi rung lắc nên khiến cho năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu đó mà di chuyển tới với số lượng lớn. Khi năng lượng hoại diệt di chuyển tới với số lượng lớn sẽ khiến cho cấu trúc Trụ linh và Tướng đó bắt đầu bị đồng hóa, bị phân rã. Kết cục là hoại diệt vĩnh viễn.

Như vậy, các cấu trúc Trụ – Trí mà thực hiện cơ chế phân tách, liên kết với bản chất là Kết mạnh cho tới siêu mạnh chính là chọn lựa và đang đi trên con đường chuyển sinh phân rã để hoại diệt vĩnh viễn.

Nguyên nhân hoại diệt của cấu trúc Trụ – Trí Kết mạnh cho tới siêu mạnh là do mất cân bằng trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh. Khi đó, lượng hạt năng lượng âm quá nhiều, năng lượng hoại diệt tấn công vào gây phân rã. Khi năng lượng hoại diệt tấn công vào, cấu trúc Trụ – Trí Kết không có hạt năng lượng dương để phòng thủ, kích nổ, sẽ bị chuyển hóa thành năng lượng hoại diệt.

Khổ đau chính là sự phân rã và hoại diệt của hết thảy 3 nhóm cấu trúc Trụ – Trí trong Vũ trụ. Nguyên nhân của khổ đau là do các cấu trúc Trụ – Trí thực hiện cơ chế phân tách liên kết để thỏa mãn đời sống là Kết. Khi Kết sẽ bị năng lượng hoại diệt tấn công gây đứt liên kết mà hoại diệt.

Như vậy, năng lượng hoại diệt lại chi phối và thúc đẩy cấu trúc Trụ – Trí thực hiện đời sống Kết để nhanh bị hoại diệt hơn.

5.2.   Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Định đối với con đường chuyển sinh

Cấu trúc Trụ – Trí Định là bao gồm 3 nhóm vật chất trong toàn bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách, liên kết trong sự cân bằng. Đó là thực hiện đời sống không Kết cũng không Tỏa. Cấu trúc Trụ – Trí Định là duy trì sự an toàn, bảo vệ sự an lạc của Tướng đó.

Cấu trúc Trụ – Trí thực hiện đời sống Định, tức là phân tách liên kết các sợi mã sóng trí tuệ rất chậm và luôn trong bản chất cân bằng. Khi đó, các hạt năng lượng âm và các hạt năng lượng dương có sóng điện rất nhẹ. Các hạt năng lượng sóng điện âm nhẹ không kích thích thu hút năng lượng hoại diệt, các hạt năng lượng sóng điện dương nhẹ không có khả năng kích nổ năng lượng hoại diệt nếu năng lượng hoại diệt tấn công.

Vì bản chất cấu trúc Trụ – Trí thực hành đời sống Định nên nó tự an lạc, thanh tịnh mà không bị năng lượng hoại diệt tấn công. Tuy nhiên nếu nó di chuyển vào nơi có năng lượng hoại diệt thì nó cũng không chống lại được sự hoại diệt. Nếu nó duy trì Định mãi thì nguy cơ hoại diệt là cao.

Nếu cấu trúc Trụ – Trí Định mà chuyển sinh thành thực hiện đời sống Tỏa thì nó có khả năng kích nổ được năng lượng hoại diệt. Khi đó, nó sẽ thực hiện được cơ chế phân tách, liên kết mạnh mẽ và liên kết được với hết thảy các cấu trúc Trụ – Trí của Vũ trụ.

5.3.   Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Tỏa đối với con đường chuyển sinh

Cấu trúc Trụ – Trí Tỏa là bao gồm 3 nhóm vật chất trong toàn bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết vì lợi ích của tất cả các Tướng khác mà không vì bản thể Tướng mình. Đó là vì vạn vật, Tuệ linh, con người mà không màng về mình.

Khi các cấu trúc Trụ – Trí thực hiện đời sống với bản chất là Tỏa, từ Trụ linh sẽ phân tách ra vô số các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương. Trước khi phân tách ra được các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương thì cũng là quá trình phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm ở mức nhẹ. Các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương được phân tách ra nhiều sẽ giúp cho các hạt năng lượng dương tận cùng được hình thành và tạo thành cấu trúc năng lượng 16 hạt mở rộng bên ngoài Trụ linh được mở rộng và lớn mạnh. Việc mở rộng liên kết của các hạt năng lượng dương là có sợi dây liên kết mang sóng điện trung tính với tính chất là bền chặt. Cấu trúc năng lượng 16 hạt mở rộng bên ngoài Trụ linh sẽ luôn có tỷ lệ vàng là một hạt âm có sóng điện nhẹ rung lắc xung quanh một hạt năng lượng dương. Ngoài ra, do thực hiện đời sống Tỏa, các hạt năng lượng dương (sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương) đã phân tách và lan tỏa khắp Vũ trụ, tạo thành cơ chế liên kết 3 vùng: từ Trụ linh tới đối tượng (Tướng) đón nhận và trong Vũ trụ. Khi thực hiện đời sống Tỏa, các cấu trúc Trụ – Trí sẽ có khả năng kích nổ năng lượng hoại diệt để tạo thành nhiệt lượng cho quá trình phân tách, liên kết các hạt năng lượng dương và siêu hạt năng lượng được mạnh mẽ và phát triển bền vững hơn. Các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm nhẹ nên nó không kích thích nhiều năng lượng hoại diệt di chuyển vào. Nó chỉ rung động vừa đủ để năng lượng hoại diệt di chuyển ít cho tới vừa đủ.

Việc các cấu trúc Trụ – Trí thực hiện đời sống Tỏa không những là hướng chuyển sinh bền vững cho Tướng, nó còn giúp cho Tướng liên kết chặt chẽ đến với hết thảy các Tướng của Vũ trụ theo cơ chế liên kết 3 vùng trong Quy luật Nhân quả.

Trong 3 loại cấu trúc Trụ – Trí trên, cấu trúc Trụ – Trí Tỏa có con đường chuyển sinh theo hướng bền vững nhất. Cấu trúc Trụ – Trí Kết là chuyển sinh theo hướng hoại diệt. Cấu trúc Trụ – Trí Định là sự cân bằng phải có cho tất cả các Tướng. Tuy nhiên, nếu các cấu trúc Trụ – Trí trong Vũ trụ mà thực hiện đời sống riêng biệt theo 1 trong 3 cấu trúc Trụ – Trí trên thì sẽ khó khăn để đạt đến sự chuyển sinh bền vững nhất. Bởi, để cấu trúc Trụ – Trí Tỏa được phải có Kết nhẹ và vừa đủ. Cấu trúc Trụ – Trí Kết để không hoại diệt thì phải biết Tỏa. Cấu trúc Trụ – Trí Định để phát triển và tồn tại thì cần phải thực hiện Kết nhẹ trước, sau đó thực hiện Tỏa.

Như vậy, Chân lý Vạn vật với cơ chế phân tách, liên kết cho thấy: với vô số các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo và vô lượng kiếp, các Tuệ linh đã bộc phát hết độc là u mê, thiện là giác ngộ. Tiếp đến, để cấu trúc Trụ – Trí tồn tại, phát triển được bền vững thì cần phải giải mã được cả Kết, Định, Tỏa của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Từ đó, thực hành đời sống hài hòa cả Kết – Định – Tỏa mới đạt đến đích của chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất. Kết mà không phải là Kết mới tạo thành sức mạnh cực đại cho quá trình chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất.

IV.   Chân lý Giác ngộ với con đường chuyển sinh bền vững duy nhất của Trụ – Trí

Chân lý Giác ngộ trong Trụ – Trí (Trí tuệ) là: Tất cả các Trụ Trí trong và ngoài Vũ trụ đều là khổ. Các Trụ – Trí phải dùng Định (chân tâm) trong Trụ linh để thấu hiểu, chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng Kết – Định – Tỏa và phát triển bền vững cho tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Sứ mệnh tiên phong là của Tuệ linh và con người.

Tuệ linh thông qua thân tướng con người ở nhân gian để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Để chuyển sinh được thì cần phải giải mã hết tất cả các bộc phát của độc và thiện trong Trụ linh trong tất cả các kịch bản tương tác. Đó là bộc phát hết bản chất của u mê và giác ngộ. Thực hành con đường giác ngộ khi đạt đến bộ lọc năng lượng trong Trụ linh mới chấm dứt triệt để khổ đau. Do đó, bản chất trí tuệ u mê là khổ, và trí tuệ đang trên con đường giác ngộ cũng là khổ. Cụ thể:

  • Trí tuệ u mê của Tuệ linh, con người là khổ. Cái khổ của trí tuệ u mê là không thấu hiểu được chân tướng của các giả tướng mà bị bám định vào, bị luẩn quẩn trong màn đêm tối giả dối của các giả tướng để rồi vì lợi ích ích kỷ của mình mà gây tổn thương cho mọi người. Do đó chúng ta cứ luân hồi trong vô lượng kiếp mà không có điểm dừng. Vì vậy ta phải dùng chính trí tuệ u mê của ta để từng bước thấu hiểu sự thật vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Thông qua hai Chân lý để đối mặt, đón nhận tất cả các khổ đau kiếp nạn, thấu hiểu nó, giác ngộ nó và chuyển hóa thành lợi ích cho chúng sinh, đó là chuyển hóa thành giác ngộ.
  • Trí tuệ đang trên con đường giác ngộ của Tuệ linh, con người cũng là khổ. Cái khổ của trí tuệ đang trên con đường giác ngộ không phải là không thấu hiểu hai Chân lý và còn đắm chìm trong khổ đau, mà là, vì thấu hiểu bản chất của hai Chân lý cũng như tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Do đó, cái khổ là quá trình biến đổi, tìm phương pháp phù hợp để giác ngộ theo căn cơ của từng Tuệ linh và con người. Khi đã chuyển sinh được Trụ linh thành bộ lọc thì là sự chấm dứt triệt để khổ đau, bởi khi đó sẽ luôn luôn có các phương pháp gieo duyên để giác ngộ Tuệ linh, con người theo từng căn cơ trí tuệ khác nhau.

Cơ chế vận hành của Chân lý Giác ngộ là phân tách và liên kết dây. Cơ chế phân tách, liên kết dây cho thấy có hai con đường phân tách và liên kết. Đó là:

  • Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm, đó là Kết. Nếu đi theo con đường này, hết thảy cấu trúc Trụ – Trí sẽ phân rã và hoại diệt. Đây là con đường chuyển sinh phân rã và hoại diệt.
  • Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương, đó là Tỏa. Nếu đi theo con đường này, hết thảy cấu trúc Trụ – Trí sẽ phân tách, liên kết vô lượng sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương có liên kết chặt chẽ bởi sợi chân tâm, sẽ là con đường chuyển sinh bền vững nhất.

Từ bản chất của các cấu trúc Trụ – Trí, từ Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên kết, tất cả vạn vật, Tuệ linh và con người đều thấy rằng: con đường duy nhất để vượt qua khổ đau (biến đối và hoại diệt mã sóng trí tuệ) để trở nên bền vững, an lạc là đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh, chính là con đường Trụ – Trí phải Tỏa. Tỏa là con đường duy nhất để diệt khổ, để chuyển sinh thành bộ lọc năng lượng trong Trụ linh.

Thực hiện con đường Tỏa để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng không phải là Tỏa một cách tiêu cực. Vậy Tỏa làm sao để an lạc, để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng? Đó là:

  • Trí tuệ phải đứng ở vị trí Định. Định là chân tâm, là tĩnh lặng, là cân bằng, là an lạc, là thấu hiểu tri thức của hai Chân lý. Vị trí Định sẽ được nâng cao từ Định ban đầu cho tới các cảnh giới tối cao của Định. Đó là Chân tâm sáng chói lòa vô lượng. Khi Trí tuệ đứng ở vị trí Định sẽ biết lắng nghe, biết nhìn – soi lại bản thể Trí tuệ mình, biết tiếp nhận, biết cảm thông, biết sẻ chia.
  • Tiếp theo Trí tuệ phải biết Kết. Kết ở đây không phải là có tư tưởng cho tới hành động tiêu cực gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh, con người. Kết ở đây chỉ là rung động khi đứng ở vị trí Định. Tức là Trí tuệ đứng ở vị trí Định để lắng nghe, đón nhận những khổ đau, kiếp nạn, hạnh phúc, an vui, sẻ chia của vạn vật, Tuệ linh, con người. Bởi khi các Tướng khổ đau chia sẻ tới Trí tuệ của ta, những chia sẻ bởi khổ đau, khổ đau bởi u mê nên trong Trụ linh họ sẽ phân tách ra các hạt năng lượng tiêu cực sóng điện âm nhẹ màu xám, cho tới mạnh là màu đen và đỏ máu. Do cơ chế phân tách theo Quy luật Nhân quả sẽ phân tách ra làm 3 vùng. Đó là trong Trụ linh họ 1 hạt, phân tách vào Vũ trụ 1 hạt, người nghe đón nhận 1 hạt. Do Trí tuệ của ta đứng ở vị trí Định để dùng Kết nhẹ là rung động, để lắng nghe, để hút về, để đón nhận, khi đó, hạt năng lượng âm màu xám, màu đen, màu đỏ máu của họ được Trụ linh của ta hấp thụ. Do Trí tuệ ta đứng ở vị trí Định nên Trụ linh đang tỏa sóng điện chân tâm trắng sáng. Trắng sáng của chân tâm sẽ chuyển hóa hạt năng lượng âm màu xám, màu đen, màu đỏ máu của cấu trúc Trí tuệ đang sẻ chia thành màu trắng xám nhẹ. Như vậy, Trí tuệ của ta đã Kết được hạt năng lượng sóng điện âm của hết thảy các Tướng về và dùng năng lượng chân tâm trắng sáng chói lòa chuyển hóa nó thành hạt năng lượng âm sóng điện rất nhẹ. Như thế sẽ không kích động mạnh tới năng lượng hoại diệt, năng lượng hoại diệt sẽ không di chuyển nhiều vào Trụ linh của ta. Trí tuệ của ta Định để chuyển hóa thành Tỏa. Đây chính là Kết mà không phải là Kết. Cũng như vậy, Trụ – Trí của ta sẽ kết được những hạt năng lượng chân tâm, năng lượng dương từ những Tướng tích cực, đa dương, giác ngộ để hấp thụ nhiệt dương của các hạt năng lượng đó. Những nhiệt dương được hấp thụ sẽ giúp cho Trụ linh có sức mạnh để kích nổ hạt năng lượng hoại diệt nhằm sinh nhiệt lớn cho việc sản sinh ra các hạt năng lượng dương.
  • Tiếp đến Trí tuệ của ta lại Định. Định ở đây là sau khi đã đón nhận những sẻ chia, tức là Kết được lượng thông tin về vạn vật, về khổ đau, an vui, hạnh phúc vào Trụ linh, trí tuệ của ta tiếp tục Định để cân bằng ở cảnh giới chân tâm cao hơn. Đó là giải mã và mã hóa tận cùng khổ đau, an vui hạnh phúc của hết thảy các Tướng, trong khi Trụ linh và Trí tuệ của ta vẫn Định. Bởi chỉ khi Định thì Trí tuệ của ta mới chuyển hóa thành Tỏa ra vô lượng sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương.
  • Cuối cùng là Tỏa. Khi đã trải qua quá trình Định rồi Kết, lại Định rồi đến cuối cùng là Tỏa. Tỏa ở đây chính là Trí tuệ của ta sẻ chia con đường diệt khổ, về cội nguồn, về kế hoạch tu hành, về sứ mệnh, về trách nhiệm, về cơ chế và phương pháp chuyển sinh bền vững an lạc, về khuôn mẫu đạo đức và con đường giác ngộ trong bốn hình tướng Đạo. Đó là chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi Trí tuệ ta làm đúng quy trình như vậy, từ Trụ linh của ta sẽ Tỏa ra vô số các siêu hạt năng lượng vào 3 vùng. Đó là trong Trụ linh của ta sẽ lưu giữ, trong Vũ trụ cũng lưu giữ và trong đối tượng Tướng được nghe ta sẻ chia cũng lưu giữ. Khi ta Tỏa sẽ tạo thành liên kết 3 vùng rất bền chặt. Không những vậy, Trụ linh của ta sẽ trở nên phát triển bền vững.

Khi cấu trúc Trụ – Trí của ta thực hiện quy trình Kết – Định – Tỏa thành bản năng, thực hành trong thời gian dài và tới được nhiều cho tới vô số Tướng khác, Trụ linh của ta sẽ chuyển hóa thành bộ lọc.

Nếu Trụ – Trí lựa chọn con đường chỉ Kết thì sẽ hoại diệt. Nếu Trụ – Trí lựa chọn con đường chỉ Định thì nguy cơ hoại diệt cao. Nếu Trụ – Trí chỉ lựa chọn con đường Tỏa thì tuy không có nguy cơ hoại diệt cao nhưng cơ hội và tốc độ để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng là mất nhiều thời gian, không biết khi nào sẽ đạt được. Nhưng, khi Trụ – Trí thực hiện kết hợp theo quy trình đứng ở vị trí Định để thực hành Kết – Định – Tỏa sẽ là quy trình siêu tốc độ để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng thông qua việc cấu trúc Trụ – Trí giải mã được vạn vật và thực hành được Kết – Định – Tỏa chính là hoàn thành được kế hoạch tu hành tại nhân gian của mỗi Tuệ linh.

***************

 

 

Rate this post

Bài viết liên quan